Xu Hướng 9/2023 # Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chợ Bến Thành Dàn Ý &Amp; 8 Bài Thuyết Minh Danh Lam Thắng Cảnh # Top 15 Xem Nhiều | Cuik.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chợ Bến Thành Dàn Ý &Amp; 8 Bài Thuyết Minh Danh Lam Thắng Cảnh # Top 15 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chợ Bến Thành Dàn Ý &Amp; 8 Bài Thuyết Minh Danh Lam Thắng Cảnh được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Cuik.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Với lối kiến trúc cổ, chợ Bến Thành mang đậm dấu ấn lịch sử, chứa đựng giá trị văn hóa, bản sắc truyền thống của dân tộc Việt Nam. Ghé thăm chợ Bến Thành bạn có thể mua sắm đủ thứ quần áo, quà bánh, ăn các món ăn đặc sắc. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết để ngày càng học tốt môn Văn 8:

1. Mở bài:

Giới thiệu về chợ Bến Thành

2. Thân bài:

a. Nguồn gốc:

Hình thành từ rất sớm, trước khi người Pháp vào Việt Nam

Khởi nguồn từ một khu chợ gần bến thuỷ sông Bến Nghé

Từ 1859 đến 1911, hoạt động tấp nập dù bị chiếm đóng

Năm 1912 được xây dựng trên một khu đất mới

b. Vị trí và quy mô:

Nằm ở quận 1 thành phố Hồ Chí Minh, giữa các đường Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lê Thánh Tông, công viên Quách Thị Trang thuộc phường Bến Thành

Diện tích: 13.056m2 với 1437 sạp hàng.

Chợ có đủ các loại mặt hàng quần áo, giày dép, hoa quả, …

c. Kiến trúc:

Ban đầu ở chợ cũ, được làm vách gỗ, mái tranh, lá, … sau đó được nâng cấp lên với mái ngói, tôn.

Năm 1912, được xây bằng gạch, lớp mái ngói.

Có hình tháp đồng hồ, kiến trúc cổ điển.

Gồm 4 cửa chính với 12 cửa phụ. Mỗi cửa bán 1 mặt hàng.

d. Chợ Bến Thành về đêm:

Là một địa điểm du lịch đặc sắc

Có nhiều hàng quán và món ăn đường phố nổi tiếng

đ. Các cách đến chợ Bến Thành:

Đi bằng xe buýt số 01, 02, 03, 04, 18, …

Đi bằng ô tô và xe máy

3. Kết bài:

Kết luận chung

Nằm ở trung tâm thành phố. Chợ Bến Thành ngày nay có hình chữ nhật, trổ bốn cửa ra quảng trường Quách Thị Trang và các con đường: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và Lê Thánh Tôn thuộc quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

Đặc điểm: Chợ Bến Thành rất đỗi quen thuộc với người dân Việt và du khách quốc tế khi đến tham quan du lịch thành phố Hồ Chí Minh.

Trước khi Pháp xâm chiếm Sài Gòn năm 1859, có một chợ nhỏ nằm ở khu đất đồng lầy kề bên bờ sông Bến Nghé và sát thành Sài Gòn. Từ xuất xứ ấy mà chợ đã mang tên ghép là Bến Thành. Chợ được xây bằng gạch, khung gỗ, lợp tranh. Năm 1870, chợ bị cháy một phần. Năm 1911, chợ cũ bị phá đi, chợ mới được xây khang trang rộng rãi hơn và hoàn thành vào tháng 3/1914.

Sau năm 1975, chợ Bến Thành lại được đầu tư nâng cấp to đẹp lên rất nhiều so với trước. Năm 1985, chợ Bến Thành được sửa chữa lại toàn bộ bên trong, bên ngoài, duy chỉ có dáng vẻ phía trước với tháp đồng hồ được giữ lại như xưa. Hình ảnh chợ Bến Thành với tháp đồng hồ thường được dùng làm biểu tượng cho thành phố.

Giờ đây chợ Bến Thành là một trung tâm buôn bán lớn không chỉ của TP Hồ Chí Minh mà còn của các tỉnh phía Nam.

Chợ Bến Thành được mô tả trong sử cũ như sau: Đó là một “phố chợ nhà cửa trù mật ở dọc theo bến sông. Chỗ đầu bến này có lệ đến đầu mùa xuân gặp ngày tế mạ, có thao diễn thủy binh, nơi bến có đò ngang chở khách buôn ngoài biển lên. Đầu phố phía Bắc là ngòi Sa ngư, có gác cầu ván ngang qua, hai bên nách cầu có dãy phố ngói, tụ tập trăm thứ hàng hóa, dọc bến sông ghe buôn lớn nhỏ đến đậu nối liền”. Thời ấy, đất Gia Định là một vùng nông nghiệp trù phú nên chợ Bến Thành đầy hàng hóa, nào gạo, cá khô, tôm khô, cầu, đường… bán ra để mua tơ lụa, quả thô, nhang, quạt, trà, đồ sành sứ, thuốc uống, dược thảo… từ nước ngoài mang đến. Sở dĩ có tên là chợ Bến Thành là vì chợ gần bến sông và gần thành. Đây chính là khu vực mà nay dành cho thương cảng Sài Gòn. Sau cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi (1833-1835) phố chợ Bến Thành không còn sầm uất như trước. Chợ được xây bằng gạch, sườn gỗ, lợp tranh. Sau khi đánh chiếm Gia Định, thực dân Pháp đã cho lập một nhà lồng làm chợ ở ngay trên nền đất mà nay là trường Trung học Ngân Hàng 3. Ngôi chợ này bị cháy năm 1870, nhưng đã được trùng tu với sườn sắt. Trước nhà lồng chợ có con kênh rộng chạy đến trước cửa tòa nhà nay là trụ sở của Ủy ban Nhân dân thành phố. Đến năm 1887-1888 thì con kênh này được lấp lại, làm cho khu vực Võ Di Nguy, Tôn Thất Thiệp trở nên náo nhiệt hơn. Đại lộ Nguyễn Huệ trước kia là đường kênh lấp. Chợ Bến Thành được chuyển đến vị trí ngày nay. Nhà lồng chợ được khởi công xây cất trên vùng đất trước đó là một ao sình lầy gọi là ao Boresse. Thế là chợ Bến Thành xưa trở thành Chợ Cũ, còn chợ Bến Thành mới được gọi là Chợ Mới Sài Gòn. Ngôi chợ này được khởi công xây cất từ khoảng năm 1911 và khánh thành vào tháng 3 năm 1914. Ngày khánh thành có khoảng 100.000 người tham dự, có cả dân từ các tỉnh đổ về. Cuộc lễ diễn ra trong ba ngày 28, 29 và 30 tháng 3 năm 1914 với pháo bông, xe hoa. Hai con đường bên hông chợ mãi đến năm 1940 còn là bến xe đò miền Đông và miền Tây. Gần một trăm năm qua, chợ Bến Thành bao giờ cũng là một trung tâm thương mại, trung tâm phồn hoa náo nhiệt của thành phố Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ cũ. Dần dần nó trở thành một chợ lớn, nơi tập trung những mặt hàng quí hiếm của trong nước và nước ngoài.

Sau ngày giải phóng, năm 1975, chợ Bến Thành được sắp xếp và cải tạo lại một cách gọn gàng và ngăn nắp hơn. Trong chợ Bến Thành ngày nay chúng ta có thể tìm thấy đủ loại hàng hóa, từ thực phẩm vật dụng hàng ngày, hàng nhập cảng cũng như hàng nội hóa, từ những mặt hàng thông thường đến những hàng xa xỉ phẩm.

Năm 1985, Ủy ban Nhân dân thành phố và Quận 1 đã cho chỉnh trang và sửa chữa lớn chợ Bến Thành. Nhà lồng chợ và các gian hàng, sạp hàng được sửa chữa và làm mới, duy chỉ có dáng vẻ phía trước với tháp đồng hồ được giữ lại như xưa. Chợ Bến Thành ngày nay có hơn 3.000 hộ kinh doanh. Chợ Bến Thành ngày nay lại được đầu tư nâng cấp to đẹp lên rất nhiều so với trước, để nó xứng đáng là một trung tâm buôn bán lớn ở phía nam đất nước. Hàng hoá chợ Bến Thành rất phong phú, bao gồm hầu hết các sản vật trong nước – đặc biệt là sản vật ở vùng đồng bằng sông Cửu Long – cùng các mặt hàng công nghệ hiện đại trên thế giới.

Nằm ở khu vực trung tâm thành phố, từ lâu chợ Bến Thành đã trở thành biểu tượng của Sài Gòn. Không chỉ thuần túy là nơi buôn bán, gần một trăm năm qua ngôi chợ này đã trở thành một chứng nhân lịch sử chứng kiến bao đổi thay thăng trầm của thành phố, là bộ mặt kinh tế nói lên sự phát triển của một thành phố thương mại lớn nhất nước và là điểm giao hòa giữa Sài Gòn xưa và nay.

Những năm gần đây chợ Bến Thành còn là địa điểm tham quan không thể thiếu cho bất cứ tour du lịch nào đến TP. Hồ Chí Minh. Hẳn nhiên, du khách đến chợ không chỉ đơn thuần để tìm mua những hàng hóa hay quà lưu niệm mà còn tìm ở đó chút hình ảnh riêng, một cá tính đặc trưng thể hiện trong những sinh hoạt đời thường của một thành phố mà chợ chính là nơi bộc lộ rõ nhất.

Hình thành từ trước khi người Pháp đặt chân đến vùng đất này, ngôi chợ khởi thủy nằm ven sông Bến Nghé, ở một bến cận thành Quy (thành Gia Định) nên có tên là Bến Thành. Đến năm 1911, chính quyền thuộc địa Pháp quyết định dời chợ về vị trí hiện nay, khi ấy còn là một cái ao sình lầy. Chợ được khởi công từ năm 1912 cho đến cuối tháng 3-1914 mới hoàn tất và hoạt động liên tục kể từ đó cho đến nay.

Bến Thành được xem là chợ bán lẻ quy mô nhất theo nghĩa có thể tìm thấy tại nơi này đủ thứ mặt hàng, từ bình dân đến cao cấp, đặc biệt hàng thực phẩm thuộc loại chọn lọc nhất. Ở đây không thiếu một thứ gì, từ củ hành, trái ớt, mớ rau, con cá, đủ loại hoa quả mùa nào thức nấy, cho tới bánh kẹo, vải vóc, giày dép, túi xách, đồ điện, điện tử, hàng lưu niệm…

Chợ Bến Thành có tổng diện tích 13.056m², trung bình mỗi ngày đón khoảng 10.000 lượt khách lui tới mua bán và tham quan. Chợ có 1.437 sạp, 6.000 tiểu thương, 11 doanh nghiệp, với bốn cửa chính và 12 cửa phụ tỏa ra bốn hướng.

Cửa Nam (nhìn ra quảng trường Quách Thị Trang) với biểu tượng ngôi tháp đồng hồ ba mặt, là cổng chính, bên trong nhà lồng là nơi bày bán các mặt hàng vải vóc và thực phẩm khô. Cửa Bắc (phía đường Lê Thánh Tôn) rực rỡ với những gian hàng hoa tươi và trái cây mời gọi người qua đường. Cửa Ðông (phía đường Phan Bội Châu) hấp dẫn khách hàng bởi các loại mỹ phẩm và bánh kẹo đầy màu sắc. Cửa Tây (phía đường Phan Chu Trinh) lại là nơi thu hút phái đẹp vì sự đa dạng về kiểu dáng và kích cỡ của giày dép, hàng mỹ nghệ, đồ lưu niệm.

Ngoài ra, dọc theo các hành lang bao quanh nhà lồng chợ là những gian hàng bày bán đủ các loại mặt hàng tiêu dùng phục vụ khách du lịch, đặc biệt là hàng lưu niệm, quần áo may sẵn, vải tơ tằm, thủ công mỹ nghệ, tranh thêu, thổ cẩm…

Nhắc đến chợ Bến Thành thì không thể bỏ qua khu ẩm thực với sự góp mặt của đầy đủ các món ăn truyền thống khắp mọi miền đất nước. Cuối tháng 1-2012, chợ Bến Thành đã được Tạp chí Ẩm thực Food and Wine nổi tiếng chọn là một trong 10 điểm đến có món ăn đường phố hấp dẫn nhất hành tinh, chính là lời khẳng định hùng hồn cho sự phong phú đó.

Chợ Bến Thành cũng rất sôi động về đêm, bắt đầu từ 7 giờ tối, 178 quầy hàng đổ ra hai con đường Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh bên hông chợ với các quầy hàng mỹ nghệ, lưu niệm, quần áo và đặc biệt là hàng ăn.

Mặc dù xu hướng mua sắm của một đô thị hiện đại là vào siêu thị hoặc các trung tâm thương mại, nhưng đôi khi trong nhịp sống nhanh đó người ta cũng cần sống chậm đi, như một cách lấy lại thăng bằng cho tâm hồn. Đó là một trong những lý do để chợ Bến Thành nói riêng và các chợ truyền thống nói chung sẽ vẫn tồn tại mãi với thời gian. Và phần hồn của chợ Bến Thành nằm ngay trong nhà lồng, nơi đời sống đô thị diễn ra sinh động nhất qua những giao tiếp thân tình giữa con người với con người.

Chợ Bến Thành là một di tích văn hóa lâu đời có từ hơn trăm năm về trước, nó gắn liền với đời sống của các thế hệ người dân Sài Thành và là nét đẹp đặc trưng, biểu tượng của thành phố Hồ Chí Minh.

Nằm tọa lạc ở quận một, thành phố Hồ Chí Minh, được xây dựng vào thế kỉ XIX nhưng vị trí nguyên thủy của chợ Bến Thành lại nằm bên bờ sông Bến Nghé, cạnh một bến sông gần thành Gia Định và là nơi diễn ra các hoạt động giao thương, buôn bán.

Chợ được hình thành bắt nguồn từ thành Bát Quái được Nguyễn Ánh cho xây dựng để ngăn bước tiến của nghĩa quân Tây Sơn. Sông Bến Nghé có một bến sông nằm gần thành Bát Quái, bến này dùng cho khách vãng lai và quân nhân vào thành, vì vậy mà được gọi là Bến Thành (tức bến trước khi vào thành); gần sát bến này có một khu chợ vì thế mà chợ này cũng được gọi là “Chợ Bến Thành”.

Và tên “Chợ Bến Thành” chính là được xuất phát từ đây.Tuy vậy, sau khi Pháp xâm chiếm thành Gia Định vào cuối thế kỷ 19, chợ đã bị thiêu hủy trong đợt hỏa công liên tiếp của chúng, tuy đã được dựng lại nhưng chợ Bến Thành chỉ duy trì được một thời gian. Chợ Bến Thành ngày nay là chợ mới, được Pháp xây dựng ở gần ga xe lửa Mỹ Tho để phục vụ nhu cầu buôn bán, giao thương ngày càng phát triển.

Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, kiến trúc và vị trí chợ Bến Thành ngày nay khác hoàn toàn so với thời kỳ đầu bởi chợ cũ nằm được xây bằng gạch, sườn gỗ, lợp tranh, được người xưa mô tả như là “phố chợ nhà cửa trù mật ở dọc theo bến sông.

Chỗ đầu bến này có lệ đến đầu mùa xuân gặp ngày tế mạ, có thao diễn thủy binh, nơi bến có đò ngang chở khách buôn ngoài biển lên. Đầu phố phía Bắc là ngòi Sa ngư, có gác cầu ván ngang qua, hai bên nách cầu có dãy phố ngói, tụ tập trăm thứ hàng hóa, dọc bến sông ghe buôn lớn nhỏ đến đậu nối liền”.

Tuy nhiên, sau cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi, thành Quy bị triệt hạ, phố chợ Bến Thành cũng không còn sầm uất như trước. Trước thời điểm Pháp đánh chiếm Gia Định thì khu vực quanh thành có rất ít dân cư trú và chợ Bến Thành là đông đúc nhất.

Cạnh khu chợ, dọc theo bờ sông Bến Nghé, các ghe thương thuyền thường đậu chen chúc nhau, tạo thành một thành phố nổi trên mặt nước. Còn chợ Mới được bố trí vô sâu trong kinh chợ Vải, trên đường Nguyễn Huệ ngày nay chứ không nằm bến sông như ngôi chợ cũ.

Trước mặt chợ Bến Thành là công trường Quách Thị Trang – trước kia là cái ao sình lầy gọi là Bồ – Rệt do viên xã Tây lúc ấy cho lấp năm 1912 và xây chợ Mới Sài Gòn. Cửa chính của chợ Bến Thành là cửa Nam, rất phù hợp với tiêu chí mở cửa chính trong kiến trúc Việt: Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam.

Mặt Bắc chợ mới là đường Lê Thánh Tôn. Mặt Tây chợ mới là đường Phan Chu Trinh. Mặt Đông chợ mới là đường Phan Bội Châu. Chợ Bến Thành có 16 cửa gồm 4 cửa chính và 12 cửa phụ.Cửa Nam là mặt tiền của chợ Bến Thành hướng ra công trường Quách Thị Trang.

Phía Nam chợ Bến Thành ngoài cửa Nam còn có cửa số hai, cửa số mười sáu. Điểm nổi bật nhất của cửa Nam đó chính là tháp đồng hồ, tháp có ba mặt và được xây dựng theo kiến trúc kiểu Pháp.

Phía dưới tháp đồng hồ, ở mặt tiền, có ba chữ “Chợ Bến Thành”, bên trong nhà lồng là nơi bày bán các mặt hàng vải vóc và thực phẩm khô. Nếu như cửa Bắc rực rỡ với những gian hàng hoa tươi và trái cây thì cửa Đông lại bày bán các loại mỹ phẩm và bánh kẹo đầy màu sắc. Cửa Tây nổi bật với sự đa dạng về kiểu dáng và kích cỡ của giày dép, hàng mỹ nghệ, đồ lưu niệm…

Khi trăng lên, chợ như khoác lên một tấm áo mới với sắc màu rực rỡ, tráng lệ trong không khí đông đúc, tấp nập, nhộn nhịp người qua lại, chợ đêm thường tập trung trên hai con đường Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh bên hông chợ chính. Có thể nói đây là thời gian “sống thật” của chợ với nhiều hoạt động giao thương, thưởng thức ẩm thực đa dạng dành cho du khách và người dân bản địa.

Với lối kiến trúc cổ, mang đậm chất Pháp, chợ Bến Thành mang đậm dấu ấn lịch sử và dấu ấn văn hóa, chứa đựng giá trị văn hóa, bản sắc truyền thống của dân tộc Việt. Có thể nói chợ Bến Thành là minh chứng hùng hồn của lịch sử, chứng kiến công cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước.

Như vậy, ta có thể thấy tuy việc xã hội không ngừng thay đổi để theo kịp thời đại, nhưng những nét đẹp truyền thống bình dị mà gần gũi vẫn được giữ nguyên, kết hợp hài hòa mà không bị hòa tan. Chợ Bến Thành chính là niềm tự hào của người dân Sài thành cũng như bao người con đất Việt, góp phần quảng bá hình ảnh nước nhà với bạn bè quốc tế.

Ai đến Sài Gòn, chắc cũng đôi lần được bước tới và tham quan, mua sắm ở chợ Bến Thành. Nằm ở trung tâm thành phố, chợ Bến Thành rất đỗi quen thuộc với người dân Việt và du khách quốc tế đến Thành phố Hồ Chí Minh.

Sở dĩ có tên là chợ Bến Thành là vì chợ gần bến sông và gần thành Quy. Đầu thế kỉ XVII, khi người Việt đến lập cư ở vùng đồng bằng sông Cửu Long thì vùng đất Sài Gòn xưa trở thành nơi phố chợ đông đúc náo nhiệt nhất vùng Nam Kỳ lục tỉnh. Giữa thế kỉ XIX, xuất hiện một chợ nhỏ nằm ở khu đất đồng lầy kề bên bờ sông Bến Nghé và sát thành Sài Gòn. Chợ Bến Thành được mô tả trong sử cũ như sau: Đó là một “phố chợ nhà cửa trù mật ở dọc theo bến sông. Chỗ đầu bến này có lệ đến đầu mùa xuân gặp ngày tế mạ, có thao diễn thủy binh, nơi bến có đò ngang chở khách buôn ngoài biển lên. Đầu phố phía Bắc là ngòi Sa ngư, có gác cầu ván ngang qua, hai bên nách cầu có dãy phố ngói, tụ tập trăm thứ hàng hóa, dọc bến sông ghe buôn lớn nhỏ đến đậu nối liền”.

Thời ấy, đất Gia Định là một vùng nông nghiệp trù phú nên Chợ Bến Thành đầy hàng hóa, nào gạo, cá khô, tôm khô, cầu, đường, tơ lụa, quả thô, nhang, trà, quạt, đồ sành sứ, thuốc uống, dược thảo… từ nước ngoài mang đến. Đây chính là khu vực mà nay dành cho thương cảng Sài Gòn. Sau cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi (1833 – 1835) phố chợ Bến Thành không còn sầm uất như trước. Chợ được xây bằng gạch, sườn gỗ, lợp tranh.

Sau khi đánh chiếm Gia Định, thực dân Pháp đã cho lập một nhà lồng làm chợ ở ngay trên nền đất mà nay là Trường học Ngân hàng 3. Ngôi chợ này bị cháy năm 1870, nhưng đã được trùng tu với sườn sắt. Trước nhà lồng chợ có con kinh rộng chạy đến trước cửa tòa nhà nay là trụ sở của Ủy ban Nhân dân thành phố. Đến năm 1887 – 1888 thì con kinh này được lấp lại, làm cho khu vực Võ Di Nguy, Tôn Thất Thiệp trở nên náo nhiệt hơn. Đại lộ Nguyễn Huệ trước kia là đường kinh lấp. Ngôi chợ Bến Thành được chuyển đến vị trí ngày nay.

Nhà lồng chợ được khởi công xây cất trên vùng đất trước đó là một ao sình lầy gọi là ao Boresse. Ngôi chợ này được khởi công xây cất từ khoảng năm 1912 và khánh thành vào tháng 3 năm 1914. Ngày khánh thành có khoảng 100.000 người tham dự, có cả dân từ các tỉnh đổ về. Cuộc lễ diễn ra trong ba ngày 28, 29 và 30 tháng 3 năm 1914 với pháo bông, xe hoa.

Thế là chợ Bến Thành xưa trở thành Chợ Cũ, còn chợ Bến Thành mới được gọi là Chợ Mới Sài Gòn. Mãi đến năm 1940 hai con đường bên hông chợ còn là bến xe đò miền Đông và miền Tây. Gần một trăm năm qua, chợ Bến Thành bao giờ cũng là một trung tâm thương mại, trung tâm phồn hoa náo nhiệt của thành phố Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ cũ. Dần dần nó trở thành mọt chợ lớn, nơi tập trung những mặt hàng quý hiếm của trong nước và nước ngoài.

Chợ Bến Thành ngày nay có khoảng 3.000 hộ kinh doanh. Hình ảnh chợ Bến Thành thường được dùng làm biểu tượng cho thành phố.

Chợ Bến Thành ngày nay lại được đầu tư nâng cấp to đẹp lên rất nhiều so với trước, để nó xứng đáng là một trung tâm buôn bán lớn ở phía nam đất nước. Hàng hóa chợ Bến Thành rất phong phú, bao gồm hầu hết các sản vật trong nước – đặc biệt là sản vật ở vùng đồng bằng sông Cửu Long – cùng các mặt hàng công nghiệp hiện đại trên thế giới.

Chợ Bến Thành ở Sài Gòn trước khi bị Pháp xâm chiếm năm 1859 là một chợ nhỏ nằm ở khu đất đồng lầy kề bên bờ sông Bến Nghé và sát thành Sài Gòn. Từ đó mà chợ đã mang tên ghép là Bến Thành. Chợ Bến Thành được xây bằng gạch, khung gỗ, lợp tranh. Năm 1870, chợ bị cháy một phần. Năm 1911, chợ cũ bị phá đi, chợ mới được xây khang trang rộng rãi hơn và hoàn thành vào tháng 3/1914.

Sau năm 1975, chợ Bến Thành lại được đầu tư nâng cấp to đẹp lên rất nhiều so với trước. Năm 1985, chợ Bến Thành được sửa chữa lại toàn bộ bên trong, bên ngoài, duy chỉ có dáng vẻ phía trước với tháp đồng hồ được giữ lại như xưa. Hình ảnh chợ Bến Thành với tháp đồng hồ thường được dùng làm biểu tượng cho thành phố.

Trải qua nhiều năm thăng trầm của lịch sử, chợ Bến Thành vẫn là một trong những trung tâm mua sắm bậc nhất tại Hồ Chí Minh. Chợ Bến Thành là một thị trường nhộn nhịp cả ngày lẫn đêm, chợ Bến Thành được xem là một biểu tượng, điểm đến vô cùng thú vị cho không chỉ du khách quốc tế mà còn cả với người dân địa phương. Dạo quanh, mua sắm, khám phá chợ Bến Thành từ lâu đã trở thành một phần không thể thiếu trong những tour du lịch miền tây kết hợp du lịch Sài Gòn.

Chợ Bến Thành nổi tiếng là khu trung tâm mua sắm có vị trí đắc địa, cửa ngõ giao thoa của thành phố, nằm giữa đại lộ Hàm Nghi, Trần Hưng Đạo. Đây là điều kiện thuận lợi cho các hoạt động giao lưu và thương mại diễn ra sôi động, nhộn nhịp. Chợ Bến Thành có tới bốn cửa chính với Cửa Nam (cửa chính) nhìn ra quảng trường Quách Thị Trang, cửa Bắc phía đường Lê Thánh Tôn, cửa Ðông phía đường Phan Bội Châu và cửa Tây hướng ra đường Phan Chu Trinh.

Theo kinh nghiệm du lịch Sài Gòn, đến với chợ Bến Thành du khách có thể tìm thấy gần như hầu hết mọi thứ từ thông dụng đến hiếm có, từ bình dân đến cao cấp như thực phẩm, quần áo, trang sức, vật dụng, gia vị, quà lưu niệm, đồ điện tử… với chất lượng tốt.

Bên cạnh những món quà lưu niệm, thời trang, đến chợ Bến Thành bạn sẽ thích thú khi được khám phá khu vực ẩm thực với hàng trăm món từ mọi miền của đất nước như phở Hà Nội, bánh bèo Huế, hủ tiếu Mỹ Tho, chả giò, các món bún, bánh xèo.

Chợ Bến Thành đã trở thành một trong những biểu tượng du lịch của thành phố Hồ Chí Minh. Điểm du lịch hấp dẫn luôn thu hút khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan và mua sắm.

Ghi dấu trong ký ức tuổi thơ và tâm hồn của nhiều thế hệ người Sài Gòn, chợ Bến Thành đã trở thành biểu tượng của thành phố này, như tháp Rùa thân thương gắn bó với người dân Hà Nội. Không một tour du lịch nào đến thành phố mang tên Bác mà các công ty lữ hành không dẫn du khách tới tham quan và mua sắm ở chợ Bến Thành – khu chợ sầm uất của thành phố thương mại lớn nhất nước.

Nếu muốn tìm hiểu và cảm nhận hình ảnh đặc trưng trong sinh hoạt đời thường cũng như nhịp sống sôi động của người Sài Gòn, hãy tới chợ Bến Thành.

Chợ rộng tới 13.056m², nằm ở vị trí trung tâm Sài Gòn, gồm 4 cửa chính (cửa Nam, cửa Bắc, cửa Đông, cửa Tây) và 12 cửa phụ chia đều ra 4 hướng. Với quy mô rộng lớn, chợ Bến Thành ngày nay có trên 1.400 sạp hàng của khoảng 6.000 tiểu thương và 11 doanh nghiệp, mỗi ngày tiếp đón trung bình 10.000 lượt khách tới tham quan, mua bán.

Đây là ngôi chợ lâu đời và hiện đại nhất Sài Gòn. Sở hữu kiến trúc cổ xưa từ thời Pháp thuộc nên chợ Bến Thành cũng được biết đến là một trong những điểm tham quan hút khách nhất.

Đi khắp mọi miền đất nước, ít thấy ngôi chợ nào tập trung du khách thuộc nhiều quốc tịch và màu da như Bến Thành. Đây cũng là nơi có sự giao thoa giữa các nền văn hóa Đông – Tây tự cổ chí kim. Qua cổng chợ, du khách sẽ thấy một thế giới tấp nập và rộn ràng khác hẳn. Trong dòng người nườm nượp là nhiều du khách nước ngoài, họ bị ấn tượng bởi những lời chào lảnh lót bằng tiếng Anh, Nhật, Pháp, Thái, Hàn, Đức, Campuchia… tạo nên âm thanh sôi động của cuộc sống.

Đặc biệt nhất, những tiểu thương ở chợ Bến Thành hầu hết là những cô gái trẻ trung, xinh đẹp, ăn mặc hợp thời và “sành” ngoại ngữ. Theo một nhân viên ban quản lý, có khoảng 80 – 90% nhân viên bán hàng đứng quầy quần áo, mỹ phẩm, thổ cẩm, hàng lưu niệm… nói được ít nhất 2 ngôn ngữ. Bởi vậy, khu chợ này được coi là một trong những khu mua sắm hiện đại bậc nhất và hội nhập nhanh ở Sài Gòn.

Ngoài ra, Bến Thành còn nổi tiếng là khu chợ bán lẻ quy mô nhất. Các mặt hàng ở đây rất đa dạng, phong phú về chủng loại. Cây kim, sợi chỉ, củ hành, mớ rau, gia vị cho đến bánh kẹo, thực phẩm, thủy hải sản, quần áo, đồ dệt may, quà lưu niệm, trang sức, đồ điện tử… đều có đủ từ hàng bình dân đến cao cấp.

Hàng hóa được bày bán và phân chia theo từng khu vực trong chợ. Cửa Nam tập trung các mặt hàng vải vóc và thực phẩm khô. Cửa Bắc luôn tràn ngập hoa, trái cây tươi với nhiều màu sắc sặc sỡ và bắt mắt. Cửa Đông có các loại mỹ phẩm và hàng bánh kẹo. Cửa Tây là nơi thu hút nhiều du khách hơn cả vì bày bán giày dép, đồ mỹ nghệ, lưu niệm.

Một khu vực khác không kém phần hấp dẫn là khu ẩm thực với những món ăn ngon. Gần như các món ăn truyền thống khắp mọi miền đất nước đều tập trung về đây. Chắc chắn du khách sẽ không thưởng thức hết được những món ăn ngon chợ Bến Thành nếu chỉ ghé qua một lần.

Dạo chợ mệt, du khách có thể ghé khu ẩm thực để giải khát với những đồ uống mát lạnh như: chè, nước dừa hoặc những món ăn vặt quen thuộc với người Sài Gòn như: ốc, bánh bèo, bánh khọt, cháo lòng, bún mắm…

Đến khi trời chập tối, Bến Thành chuyển mình thành khu chợ đêm không kém phần nhộn nhịp so với ban ngày. Lúc các cửa hàng trong chợ đóng cửa hết thì những sạp hàng ở 3 hướng cổng Đông, Tây, Bắc lại rục rịch lên đèn, biến nơi đây thành chợ đêm quyến rũ, hấp dẫn với nhiều món ăn ngon. Bởi vậy, ăn đêm chợ Bến Thành cũng là hoạt động ưa thích của du khách.

Trên đoạn đường chưa đầy 200m có rất nhiều đồ ăn ngon, từ những món ăn dân giã quen thuộc đến đồ nướng, bia, hải sản tươi sống (tôm, cua, nghêu, sò, ốc…). Chính nhờ sự đa dạng và hấp dẫn của những món ngon đất Việt, năm 2013, tờ USD Today của Mỹ đã xếp chợ Bến Thành đứng vị trí thứ 15 trong danh sách 45 khu chợ ẩm thực tuyệt vời nhất thế giới.

Vào cuối tháng 1/2012, Bến Thành cũng được Tạp chí Ẩm thực Food and Wine nổi tiếng đưa vào danh sách 10 điểm đến có món ăn đường phố hấp dẫn nhất hành tinh. Bởi vậy, không quá nếu nhận xét chợ Bến Thành là một trong những biểu tượng văn hóa của Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung.

Các quán ăn ở đây không cầu kỳ, sang trọng nhưng lúc nào cũng tấp nập du khách nước ngoài. Nhiều người chia sẻ rằng, họ rất thích ăn đêm tại chợ Bến Thành vì cảm giác thoải mái, gần gũi và được hòa mình vào cuộc sống đời thường của người dân địa phương.

Dạo chơi ngắm cảnh, thưởng thức các món ăn ngon chợ Bến Thành dần được coi là thú vui của nhiều người và trở thành hoạt động du khách không thể bỏ qua khi tới tham quan Sài Gòn hoa lệ.

Chợ Bến Thành, trước đây tọa lạc ở bến sông Tân Bình (sông Sài Gòn), cạnh một con đường vào thành Phụng, được gọi tên Bến Thành là vì chợ nằm gần bến nước của Thành Gia Định cũ và được xây cất trên một cái ao sình lầy (ao Bồ – Rệt).

Năm 1859, khi thực dân Pháp đánh Thành Gia Định, chợ Bến Thành bị thiêu trụi, sau đó chợ được xây dựng lại ở vị trí Kho Bạc nằm trên đường Nguyễn Huệ với cột gạch, sườn gỗ và lợp lá… Năm 1870, chợ Bến Thành lần nữa bị hỏa hoạn, sau đó được xây dựng lại mới với 5 gian hàng: gian thực phẩm, gian hàng cá, gian hàng thịt, gian hàng ăn uống và gian hàng tạp hóa. Đến năm 1911, chợ lại được phá bỏ và xây dựng mới, cho đến 3 năm sau (năm 1914) mới chính thức khánh thành và đi vào hoạt động. Và năm 1985, chợ Bến Thành được sửa chữa lớn toàn bộ nhưng vẫn giữ nguyên dáng vẻ bên ngoài cho đến ngày nay.

Trải qua gần một thế kỷ tồn tại và phát triển, chợ Bến Thành luôn giữ vị trí là một Trung tâm thương mại tiêu biểu của thành phố, đồng thời cũng là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của người dân thành phố và của cả nước. Cũng chính vì thế, chợ Bến Thành không chỉ là nơi mua bán mà còn là một biểu trưng văn hóa gắn liền với lịch sử phát triển của thành phố Hồ Chí Minh và khu vực.

Trước năm 1945, chợ Bến Thành đã chứng kiến những cuộc mít tinh, biểu tình của quần chúng chống lại thực dân Pháp.

Với tiếng còi “Một, hai”, với bài hát “Lên đàng”, với trùng trùng thanh niên tiên phong lấy phía trước chợ làm nơi tụ họp ngày đêm. Chợ Bến Thành đã nhìn rõ từng gương mặt của người dân Sài gòn trong buổi đón ngày độc lập đầu tiên, rồi cũng tại bùng binh này dân quân Cách mạng tuyên thệ “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” hay “Vệ quốc quân một lần ra đi, nào có xá chi đâu ngày trở về” và rồi cũng có người đã không kịp trở về nhìn đất nước đổi mới, nhưng trước đó họ cũng kịp nhìn những chiếc đồng hồ lần cuối của chợ Bến Thành trước lúc ra trận.

Hàng trăm ngàn người sinh viên học sinh, phong trào Công nhân trí thức và các Tôn giáo chống lại sự áp bức của chính quyền Mỹ – Thiệu, đặc biệt hơn là sự hy sinh của nữ sinh Quách Thị Trang ngay trước cổng chợ Bến Thành trong cao trào đấu tranh của Phật giáo chống lại chế độ độc tài chính quyền Ngô Đình Diệm, và địa điểm này nay được gọi là Quảng trường Quách Thị Trang.

Nếu như trước đây chợ Bến Thành về đêm bạn có thể nghe được tiếng guốc đêm khuya, tiếng rao “Ai bột khoai, bún tàu, đậu xanh nước dừa đường cát…hôn”, tiếng lộc cộc của những chiếc xe thổ mộ, tiếng đàn độc huyền cầm nghe đến não ruột của những người ăn xin không nhà, thì ngày nay chợ Bến Thành về đêm nhộn nhịp hơn nhiều, đâu đó tiếng gọi nhau í ới của các nam thanh nữ tú ghé vào ăn vội thứ gì để lót dạ cho một cuộc du ngoạn về đêm ở đường phố Sài Gòn, hay tiếng cười đùa không ngớt của những đứa trẻ trong một gia đình nào đó khi cùng cha mẹ đến với các gian hàng ăn uống đêm của chợ mà không kịp về nhà để chuẩn bị cho bữa ăn tối của gia đình sau một ngày làm việc vất vả, hay những tiếng trả giá lơ lớ không đầu, không đuôi bằng tiếng Việt của một số du khách nước ngoài khi vào khu vực bán hàng lưu niệm…

Năm 2004 – 2005 vừa qua, chợ Bến Thành đã được Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh công nhận là chợ đạt chuẩn Văn minh – Thương nghiệp trong cuộc vận động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.

Có người nói, để xây một trung tâm thương mại mang tầm cỡ quốc tế tại thành phố Hồ Chí Minh thì không khó lắm. Song, để giữ gìn một chợ Bến Thành luôn luôn có nét đặc trưng, bản sắc riêng giữa những thay đổi về quy hoạch và kiến trúc ở trung tâm thành phố thì công phu hơn nhiều. Người dân Sài Gòn nói riêng và Nam Bộ nói chung đã làm được điều đó gần suốt một thế kỷ qua. Vì đối với họ, chợ Bến Thành là một niềm tự hào, là một biểu trưng của thành phố năng động, là một công trình văn hóa.

Thông qua báo Sài Gòn Tiếp thị, người tiêu dùng đã bình chọn chợ Bến Thành là “Điểm du lịch được hài lòng trong năm 2005”.

Nhắc đến Sài Gòn ta không thể không nhắc đến một danh lam thắng cảnh nổi tiếng, là biểu tượng của thành phố Hồ Chí Minh được mang tên chợ Bến Thành – khu chợ cổ mang nét đẹp văn hóa đặc trưng của người Sài Gòn.

Chợ Bến Thành nằm tại quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, được xây dựng vào thế kỉ XX, nhưng thực chất chợ có lịch sử hình thành từ thế kỷ XVII, lúc đó chợ nằm gần sông Sài Gòn và là nơi mua bán của các tiểu thương.

Đến thời kỳ chống thực dân Pháp, chợ nằm bên bờ sông bến Nghé cạnh một bến sông gần thành Gia Định. Bến này dùng để cho hành khách vãng lai và quân nhân vào thành, vì vậy mới có tên gọi là Bến Thành, và khu chợ cũng có tên gọi là chợ Bến Thành.

Trải qua những thăng trầm của lịch sử, kiến trúc của chợ Bến Thành ngày nay mang diện mạo hoàn toàn khác so với thời kỳ đầu hình thành chợ. Chợ Bến Thành thời kỳ đầu được xây bằng gạch, sườn gỗ, lợp tranh, được người xưa mô tả như là “phố chợ nhà cửa trù mật ở dọc theo bến sông.

Chỗ đầu bến này có lệ đến đầu mùa xuân gặp ngày tế mạ, có thao diễn thủy binh, nơi bến có đò ngang chở khách buôn ngoài biển lên. Đầu phố phía Bắc là ngòi Sa ngư, có gác cầu ván ngang qua, hai bên nách cầu có dãy phố ngói, tụ tập trăm thứ hàng hóa, dọc bến sông ghe buôn lớn nhỏ đến đậu nối liền”.

Tuy nhiên, sau cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi, thành Quy bị triệt hạ, phố chợ Bến Thành cũng không còn sầm uất như trước. Trước thời điểm Pháp đánh chiếm Gia Định thì khu vực quanh thành có rất ít dân cư trú và chợ Bến Thành là đông đúc nhất.

Cạnh khu chợ, dọc theo bờ sông Bến Nghé, các ghe thương thuyền thường đậu chen chúc nhau, tạo thành một thành phố nổi trên mặt nước. Tuy vậy sau khi Pháp chiếm thành Gia Định bắn hỏa công thiêu rụi cả thành, thiêu hủy cả ngôi chợ ấy,tuy có được dựng lại nhưng đến thế kỷ XIX ngôi chợ trở nên cũ kỹ và lâm vào tình trạng có thể bị sụp đổ.

Để tránh tai họa, người ta phải phá chợ, chỉ còn gian hàng thịt, vì mái tôn nhẹ, nên chưa bị phá. Đồng thời người Pháp đã chọn một khu vực khác để xây dựng lại một khu chợ mới với kiến trúc tốt hơn để phục vụ nhu cầu buôn bán ngày càng phát triển, địa điểm được lựa chọn nằm gần ga xe lửa Mỹ Tho, và cũng là chợ Bến Thành ngày nay.

Trước mặt chợ Bến Thành là công trường Quách Thị Trang – trước kia là cái ao sình lầy gọi là Bồ-Rệt do viên xã Tây lúc ấy cho lấp năm 1912 và xây chợ Mới Sài Gòn. Cửa chính của chợ Bến Thành là cửa Nam, rất phù hợp với tiêu chí mở cửa chính trong kiến trúc Việt: Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam.

Mặt Bắc chợ mới là đường Lê Thánh Tôn. Mặt Tây chợ mới là đường Phan Chu Trinh. Mặt Đông chợ mới là đường Phan Bội Châu. Chợ Bến Thành có 16 cửa gồm 4 cửa chính và 12 cửa phụ.Cửa Nam là mặt tiền của chợ Bến Thành hướng ra công trường Quách Thị Trang.

Phía Nam chợ Bến Thành ngoài cửa Nam còn có cửa số hai, cửa số mười sáu. Điểm nổi bật nhất của cửa Nam đó chính là tháp đồng hồ, tháp có ba mặt và được xây dựng theo kiến trúc kiểu Pháp.

Phía dưới tháp đồng hồ, ở mặt tiền, có ba chữ “Chợ Bến Thành”, bên trong nhà lồng là nơi bày bán các mặt hàng vải vóc và thực phẩm khô. Nếu như cửa Bắc rực rỡ với những gian hàng hoa tươi và trái cây thì cửa Đông lại bày bán các loại mỹ phẩm và bánh kẹo đầy màu sắc.

Cửa Tây nổi bật với sự đa dạng về kiểu dáng và kích cỡ của giày dép, hàng mỹ nghệ, đồ lưu niệm… Khi trăng lên, chợ như khoác lên một tấm áo mới với sắc màu rực rỡ, tráng lệ trong không khí đông đúc, tấp nập, nhộn nhịp người qua lại, chợ đêm thường tập trung trên hai con đường Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh bên hông chợ chính.

Có thể nói đây là thời gian “sống thật” của chợ với nhiều hoạt động giao thương, thưởng thức ẩm thực đa dạng dành cho du khách và người dân bản địa.

Có thể nói, chợ Bến Thành chính là chứng nhân của lịch sử, chứng kiến xuyên suốt công cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước của người Việt, tuy đã được tu bổ nhưng nơi đây vẫn giữ được nét kiến trúc ngày trước gợi cho chúng ta nhớ về một thời kỳ đầy khốn khó và gian khổ. Không chỉ vậy chợ còn mang dấu ấn văn hóa rõ nét, mang đậm bản sắc truyền thống dân tộc Việt.

Ta có thể thấy giữa nhịp sống nhanh, tấp nập, hối hả, mang hơi thở hiện đại của Sài Gòn, đâu đó vẫn lưu giữ những nét đẹp truyền thống ,cổ xưa như chợ Bến Thành để ta có những giây phút sống chậm lại, hòa mình vào không khí náo nhiệt mà bình dị, gần gũi của nơi đây.

Chợ Bến Thành đã trở thành niềm tự hào của người dân Sài Thành, quảng bá những nét đẹp văn hóa, truyền thống của Việt Nam ra thế giới.

Văn Mẫu Lớp 8: Dàn Ý Thuyết Minh Về Cái Phích Nước (3 Mẫu) Lập Dàn Ý Thuyết Minh Phích Nước

Phích nước là đồ dùng không thể thiếu trong mỗi gia đình, giúp chúng ta luôn có nước nóng để sử dụng. Với 3 dàn ý thuyết minh phích nước, các em sẽ có thêm nhiều ý tưởng mới hoàn thành tốt bài văn thuyết minh của mình, để ngày càng học tốt môn Văn 8:

I. Mở bài

Đồ dùng quen thuộc nhà nào cũng có đó là phích nước để đựng nước, giữ nhiệt, giữ lạnh.

II. Thân bài

1. Tên gọi, xuất xứ

Xuất hiện từ rất lâu, bình thủy tên gọi là “phích” theo phiên âm bằng tiếng Pháp.

Các loại phích nước: phích nước có nhiều loại, kiểu dáng khác nhau, không chỉ để giữ nóng mà còn giữ lạnh. Có loại to, loại nhỏ, loại cao, loại thấp nhiều kích cỡ khác nhau. Loại to có thể chứa 2,5 lít nước, loại nhỏ có thể chứa 0,5 lít nước. Ngoài loại giữ nóng như thông thường còn có loại chức năng giữ lạnh.

2. Cấu tạo, chất liệu

Vỏ phích nước: cấu tạo bằng sắt hoặc bằng nhựa.

Thân phích thường làm bằng nhựa.

Quai phích thường cùng chất liệu với vỏ.

Tay cầm thường làm bằng nhựa.

Nút phích: chủ yếu được làm bằng nhựa đặc biệt giúp giữ nhiệt.

Ruột phích: làm bằng thủy tinh có tráng thủy sẽ giữ nhiệt độ cho nước.

3. Sử dụng bảo quản phích nước

– Sử dụng: phích mới mua các bạn không nên đổ nước sôi vào ngay, như vậy phích sẽ bị nứt, bể ngay. Trước tiên nên cho nước ấm thời gian khoảng 30 phút, sau 30 phút ấy hãy đổ nước sôi.

– Bảo quản phích nước:

Làm sạch phích vào vào ít giấm nóng, đậy chặt nắp lại rồi dùng lực từ bên ngoại lắc nhẹ rồi để khoảng 30 phút, sau đó dùng nước lạnh rửa sạch lại để lọc bỏ đi những chất cặn bên trong.

Giữ nhiệt cho phích nước lâu dài hơn bạn cần chú ý không nên cho nước nóng quá đầy vào phích, nên để một khoảng nhỏ rồi hãy đậy nắp lại.

Để xa tầm tay trẻ em để tránh gây bỏng cho trẻ em.

Tránh va đập mạnh với các vật cứng có thể làm hỏng phích nước.

III. Kết bài

Chiếc phích nước dù làm bằng gì và hình dạng thế nào cũng đều mang lại tiện ích và giúp ích rất nhiều cho con người trong đời sống hàng ngày.

1. Mở bài

Giới thiệu cái phích nước: một trong những đồ dùng quen thuộc với nhiều thế hệ con người chính là cái phích nước.

2. Thân bài

a. Khái quát chung

Lịch sử Phích nước được phát minh bởi nhà vật lí học kiêm hóa học người Scotland quý ngài James Dewar (1842-1923) vào năm 1892 tức thế kỉ 19 nhờ cải tiến từ thùng nhiệt lượng kế của Newton.

Hiện nay, ở Việt Nam, phích nước được sử dụng rộng rãi và phổ biến với con người.

b. Thuyết minh chi tiết

Cấu tạo: gồm vỏ phích và ruột phích.

Vỏ phích: hình trụ, thon dài, được làm bằng nhựa, bên ngoài in hình họa tiết bắt mắt để tăng tính thẩm mĩ. Vỏ phích còn bao gồm quai cầm hoặc nắp phích được làm bằng nhựa.

Ruột phích: gồm hai lớp thủy tinh rất mỏng, ở giữa là lớp chân không, trong lòng phích được tráng một lớp bạc rất mỏng có tác dụng ngăn sự tỏa nhiệt ra bên ngoài. Dưới đáy phích còn có một cái núm cũng có tác dụng giữ nhiệt. Nếu để vỡ cái núm ấy thì chiếc phích cũng sẽ không còn tác dụng giữ nhiệt.

c. Công dụng của phích nước

Được dùng phổ biến nhất để đựng nước nóng vì phích có khả năng giữ nhiệt cao.

Dùng để ủ ấm và giữ cho trà được ấm lâu hơn.

d. Bảo quản

Đậy kín nắp phích khi có nước nóng ở trong đó để giữ nhiệt được lâu.

Thường xuyên vệ sinh trong và ngoài phích để phích luôn sạch sẽ.

Tránh để phích nước va đập mạnh vì lớp thủy tinh bên trong rất dễ vỡ.

3. Kết bài

Khái quát lại vai trò của phích nước trong đời sống.

1. Mở bài

Dẫn dắt giới thiệu vấn đề mà đề bài yêu cầu: Thuyết minh về chiếc phích nước của lớp 9.

2. Thân bài

* Nguồn gốc, xuất xứ của chiếc phích nước

Chiếc phích nước đầu tiên ra đời vào năm 1892 bởi nhà vật lí học Sir James Dewar nhờ cải tiến từ thùng nhiệt lượng của Newton. Vì chiếc máy của Newton cồng kềnh, nhiều bộ phận không được bảo quản và khó có thể làm vệ sinh trong điều kiện phòng thí nghiệm. Chính vì vậy để thực nghiệm chính xác, yêu cầu của nhiệt lượng kế là cách li tối đa giữa nhiệt độ bên trong bình và bên ngoài bên ngoài.

→ Từ đó, chiếc phích nước đầu tiên ra đời. Lúc đầu nó là một dụng cụ để cách li nhiệt trong phòng thí nghiệm sau đó trở nên phổ biến thành đồ gia dụng như hiện nay.

* Hình dáng, các bộ phận của chiếc phích nước

Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại phích và rất nhiều những hãng sản xuất khác nhau nhưng phổ biến và thông dụng nhất vẫn là phích nước Rạng Đông. Các loại phích có rất nhiều mẫu mã, kích thước, hình dáng khác nhau, phong phú đa dạng vậy nhưng cấu tạo lại giống nhau. Chiếc phích được chia làm hai phần gồm vỏ và ruột bên trong.

– Vỏ phích:

Phần vỏ ngoài: Thường có hình trụ, chiều cao hoặc độ dài phụ thuộc vào hình dáng và kích thước của phích. Chất liệu để làm vỏ phích thường rất đa dạng, ngoài được làm bằng nhựa cứng, inox, sắt hoặc kim loại thì vỏ của một số loại phích còn được làm bằng mây, cói. Hiện nay mọi người thường thích dùng loại phích inox hơn là những loại phích làm bằng mây và cói. Trên vỏ phích thường được trang trí những hoa văn trang nhã, tinh tế và hài hòa. Ngoài ra trên đó còn có ghi rất rõ tên hãng sản xuất và dung tích của phích.

Nắp phích: Phần nắp phích cũng được làm bằng kim loại hoặc nhựa. Bên trong có phần ren để xoáy vào cổ phích. Ngoài ra nắp phích còn có thể được làm bằng gỗ nhẹ có tác dụng giữ nhiệt và đảm bảo cho nước không sánh ra ngoài.

Advertisement

Tay cầm: Trên vỏ phích có hai quai xách rất tiện lợi và xinh xắn. Một chiếc quai nằm cố định ở phần thân giữa để rót nước vào chén. Một chiếc quai nữa được làm ở phần đầu phích để xách, di chuyển phích được dễ dàng hơn.

– Ruột phích: Cấu tạo của ruột phích gồm hai lớp thủy tinh rất mỏng, ở giữa là lớp chân không, trong lòng phích được tráng một lớp bạc rất mỏng có tác dụng ngăn sự tỏa nhiệt ra bên ngoài. Dưới đáy phích còn có một cái núm cũng có tác dụng giữ nhiệt. Nếu để vỡ cái núm ấy thì chiếc phích cũng sẽ không còn tác dụng giữ nhiệt.

* Công dụng phích nước

Chiếc phích tuy nhỏ nhưng có công dụng lớn trong mỗi gia đình, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Mùa đông giá lạnh mà có ấm nước nóng để pha trà thì tuyệt biết bao.

Một chiếc phích tốt có thể giữ nhiệt từ 100 độ còn 70 độ trong vòng hai ngày. Ngoài ra, phích nước còn có thể đựng nước nóng mang đi xa khi cần thiết.

* Cách chọn và bảo quản phích nước

Cách chọn: Khi mua phích cần phải chọn lựa kĩ lưỡng để tránh bị vỡ núm, nếu bị vỡ thì sẽ không còn khả năng giữ ấm.

Cách sử dụng: Đối với những chiếc phích mới mua về, ta không nên trực tiếp đổ nước nóng vào mà nên đổ nước ấm vào trước khoảng ba mươi phút sau đó đổ đi rồi mới đổ nước nóng vào dùng. Nếu ruột phích bị nứt vỡ thì chúng ta phải lưu ý tránh để nước tiếp xúc với lớp bạc. Khi dùng nên để ở nơi an toàn tránh xa tầm tay trẻ em.

3. Kết bài

Nêu cảm nghĩ và tình cảm của bản thân về chiếc phích nước, khẳng định vai trò của nó trong đời sống con người.

Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Món Ăn Ngày Tết Dàn Ý &Amp; 12 Bài Thuyết Minh Món Ăn Lớp 8

Với mong muốn mang lại may mắn, tài lộc trong năm, nên các món ăn ngày Tết thường được mọi người lựa chọn rất kỹ về nguyên liệu, cách chế biến. Với 12 bài thuyết minh về bánh Tét, thuyết minh bánh chưng, thuyết minh món dưa muối, thuyết minh món củ kiệu… sẽ giúp các em có thêm nhiều ý tưởng mới.

Đề bài: Thuyết minh về món ăn ngày tết là một đề bài nói về cái tết của dân tộc hay là những món ăn nên ăn trong ngày tết để mang lại may mắn cho bạn vào trong năm. Các món ăn được mọi người chọn lựa rất kỹ về nguyên liệu, hay cách chế biến của nó.

Thuyết minh về món ăn ngày Tết hay nhấta

Dàn ý Thuyết minh về món ăn ngày Tết

Thuyết minh về bánh Tét ngày Tết (3 mẫu)

Thuyết minh về bánh chưng (6 mẫu)

Thuyết minh về món dưa muối

Thuyết minh về món thịt kho tàu

Thuyết minh về món củ kiệu

Dàn ý Thuyết minh về món ăn ngày Tết

I. Mở bài: giới thiệu món ăn yêu thích

Vào mỗi dịp tết, chúng ta thường làm các món ăn truyền thống như: bánh tét, bánh giày, mứt,…. Những món ăn này luôn có mặt trong tất cả các lễ tết. Một món bánh truyền thống có từ lâu đời, có vào các ngày lễ. Một món ăn mà em rất yêu thích là bánh chưng. Món ăn này rất ngon và bổ ích, em rất thích ăn bánh chưng.

II. Thân bài: thuyết minh về bánh chưng

1. Nguồn gốc bánh chưng:

Sự tích bánh chưng:

Món bánh này nói đến sự nhắc nhở của Vua đến sự quan tâm đến và biết ơn đến lúa nước.

Quan niệm truyền thống của bánh chưng:

Bánh chưng tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa

Bánh chưng tượng trưng cho trời

2. Nguyên liệu làm bánh:

Lá gói bánh

Lạt buộc

Gạo nếp

Đỗ xanh

Gia vị khác

Phụ màu

3. Quy trình chuẩn bị gói bánh:

Lá gói bánh: lá dong hoặc lá chuối, rửa lá cho sạch rồi phơi khô

Gạo nếp: được vo sạch, ngâm để hạt được mềm

Đỗ xanh: ngâm tách vỏ, giã nhuyễn, trộn với thịt

Thịt lợn: rửa sạch, cắt nhỏ và ướt gia vị

4. Quy trình thực hiện:

– Gói bánh: bánh được gói bằng tay, khuôn bánh khoảng 25 cm x 25cm

– Luộc bánh: bánh được luộc trong nước, và luộc khoảng 10 đến 12 tiếng

– Sử dụng bánh

Bánh được dùng để cúng vào ngày tết

Bánh được dùng để đón tết

Bánh được dùng để biếu người thân

III. Kết bài: cảm nghĩ của em về món ăn em yêu thích

Bánh chưng là món ăn truyền thống của dân tộc Việt Nam

Chúng ta nên lưu giữ truyền thống của dân tộc

Thuyết minh về bánh Tét ngày Tết Thuyết minh bánh Tét – Mẫu 1

Nếu nói bánh Chưng là biểu trưng cho ngày Tết miền Bắc thì bánh Tét chính là linh hồn Tết của miền Nam. Mặc dù ở mỗi địa phương lại có loại bánh Tét khác nhau nhưng nhìn chung bánh Tét Nam Bộ đều chung một khuôn mẫu, chung một quy trình cách thức và đều mang ý nghĩa sâu sắc.

Bàn về nguồn gốc của bánh Tét, có rất nhiều những thông tin khác nhau được đưa ra. Có nghiên cứu chỉ ra rằng nguồn gốc bánh Tét là từ sự giao lưu văn hóa Việt – Chăm-pa, cũng có truyền thuyết nói rằng bánh Tét có từ thời vua Quang Trung Nguyễn Huệ đánh quân Thanh. Khi vua cho quân nghỉ chân ăn Tết năm 1789, vua thấy anh lính mang mời một món bánh rất ngon liền ra lệnh mọi người gói bánh này ăn Tết, đặt tên là bánh Tết, lâu ngày tên bánh chuyển thành bánh Tét.

Bánh Chưng có hình vuông tượng trưng cho trời, đất thì bánh Tét có hình trụ dài tượng trưng cho những cột chống trời, đứng giữa trời và đất mở ra không gian cho con người sinh hoạt và lao động sản xuất. Chính vì hình dáng trụ dài này nên bánh Tét còn được gọi với tên thân thuộc là những đòn bánh Tét. Thuở xa xưa khi đời sống còn khó khăn, bánh Chưng hay bánh Tét chỉ được gói vào dịp đặc biệt quan trọng như Tết nguyên đán, ngày nay bánh tét cũng được gói vào dịp này, tuy nhiên cũng có thể gói để bán vào mọi thời điểm trong năm. Mọi người gói bánh vào dịp trước Tết để vào ngày Tết có cặp bánh tét để trên bàn thờ dâng tổ tiên.

Bánh tét được gói bằng là chuối hoặc lá dong với nhân là gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn. Có nhiều loại bánh tét phụ thuộc vào nhân của nó nhưng nhìn chung có hai loại là bánh tét mặn và bánh tét ngọt. Bánh tét mặn nhân thịt còn bánh tét ngọt nhân các loại đỗ đen, đỗ đỏ, hạt điều, làm nên sự phong phú của món ăn này. Từng địa phương ở Nam bộ lại làm ra những món bánh tét mang hương vị khác nhau, mỗi nơi lại cố gắng mang hương vị đặc trưng của địa phương vào chiếc bánh. Điển hình như Bến Tre còn có bánh tét không nhân, bánh chỉ có gạo nếp trộn cũng đậu và nước cốt dừa ăn rất lạ. Trước khi gói bánh cần có khâu chuẩn bị nguyên liệu: rửa sạch lá dong, ngâm gạo, vo rửa gạo và đậu xanh thật kỹ, thái và ướp thịt hoặc chuẩn bị các loại nhân. Nguyên liệu phải hoàn toàn tự nhiên và tươi ngon nhất, màu xanh của gạo có được nhờ trộn với nước lá rau ngót hoặc lá dứa, gạo nếp thơm dẻo có độ xốp nhất định. Một chiếc bánh tét được xem là gói khéo nhất khi bánh tròn đều, lạt buộc chắc tay và khi cắt ra nhân bánh có hình tam giác.

Quá trình luộc bánh rất quan trọng, nó quyết định đến độ thơm ngon, dẻo đẹp và bắt mắt của chiếc bánh. Bánh sau khi gói xong được dựng thẳng đứng vào trong nồi, đổ ngập nước và luộc sôi trong 6 đến 8 tiếng tùy vào số lượng và kích thước của bánh. Lúc vớt bánh ra người ta thường đem bánh rửa trong nước lạnh để bánh sạch sẽ không bị mốc, nước lạnh giúp bánh cứng chắc và giữ dáng hơn. Khi thưởng thức bánh tét, cách ngon nhất là dùng lạt để cắt, một tay cầm bánh, một tay cầm đầu dây lạt, một đầu dùng răng cắn rồi nhẹ nhàng kéo để cắt ra một khoanh bánh tét. Ăn đến đâu sẽ lột vỏ và cắt bánh đến đó, như vậy sẽ giữ được bánh lâu hơn và bảo quản tốt hơn. Bánh tét có nhiều cách ăn cùng các món ăn khác, thông thường đối với bánh tét mặn sẽ được ăn kèm với các loại dưa hành, dưa kiệu, dưa củ quả còn các loại bánh tét ngọt sẽ được ăn với hoa quả như chuối.

Là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết của người dân Nam bộ, bánh tét mang ý nghĩa nhân sinh cao cả, tượng trưng cho hình ảnh người mẹ bao bọc con cái, lớp vỏ bánh bao quanh lớp nhân bên trong giống như sự đùm bọc, bảo vệ nhau, yêu thương nhau giữa mọi người. Bánh tét làm từ những nguyên liệu xuất phát từ quá trình lao động của con người vì thế nó còn mang ý nghĩa tượng trưng cho đất trời, mùa màng, chăn nuôi, sức lao động của con người. Sự có mặt của bánh tét trong ngày Tết mang đến sự ấm cúng, sum vầy, không khí ấm áp hạnh phúc trong mọi gia đình.

Bánh tét là một món ăn nhưng hơn cả ý nghĩa của một món ăn, nó mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp, nó thể hiện được bản sắc văn hóa, đời sống tình cảm cũng như lối sống của người dân Nam Bộ. Từ những khoanh bánh tét trên mâm cơm ngày Tết người ta gợi ra những câu chuyện, trao nhau những tình cảm và răn dạy nhau nhiều điều trong cuộc sống.

Thuyết minh bánh Tét – Mẫu 2

Bánh tét được phổ biến bắt đầu từ tỉnh miền Trung Thừa Thiên – Huế trở vào. Tùy từng địa phương mà thêm gia vị cho phù hợp và tùy hoàn cảnh mà có kích thước khác nhau. Phổ biến nhất là bánh có độ dài khoảng 2 gang tay người lớn, với đường kính 10cm, khi cắt bánh xếp ba lát bánh tạo thành hình cánh hoa, ở giữa đặt thêm một lát bánh nữa tạo thành hình hoa trên đĩa.

Đặc biệt, vùng Đồng bằng sông Cửu Long xưa kia, có gia đình con, cháu đông đúc người ta thường gói những đòn bánh lớn, nặng hơn 1kg, khi cắt ra đặt gọn trong lòng đĩa, phần vỏ bánh có màu xanh cốm, chính giữa là nhân đậu xanh vàng óng trông đẹp mắt.

Nhiều gia đình gói bánh chay nhân không có thịt hoặc đậu xanh trộn thêm đường làm nhân ngọt, cũng có nhà làm bánh tét nhân chuối thay cho nhân đậu xanh. Chuối làm nhân người dân thường chọn chuối xiêm (một loại chuối phổ biến của miền Nam) trộn thêm ít đường để tăng vị ngọt, khi bánh chín nhân có màu đỏ tím nổi bật giữa lớp vỏ nếp trắng trông rất lạ mắt.

Cũng còn một loại bánh tét đặc biệt nữa là bánh tét thập cẩm. Nguyên liệu chính của bánh vẫn là nếp và đậu xanh, nhưng phần nhân có thêm trứng, tôm khô, lạp sườn, hạt sen, lạc, nấm. Loại bánh này ăn rất ngon nhưng cũng khá tốn kém, xưa kia chỉ những gia đình khá giả mới làm.

Bánh phải được buộc thành cặp, có buộc dây để dễ xách, khi tặng người thân, bè bạn phải cả đôi, thay cho lời chúc một năm mới đủ đôi vừa cặp, hạnh phúc, thịnh vượng.

Bánh phải được cắt bằng sợi chỉ tạo cho mặt bánh mịn màng. Ăn bánh với củ kiệu hoặc thịt lợn kho tàu, mùi thơm dẻo của gạo nếp, vị bùi của nhân đỗ, vị béo của thịt lợn và vị chua của củ kiệu hoà quyện với gia vị tạo nên hương vị thật là độc đáo làm người ăn một lần sẽ nhớ mãi.

Thuyết minh bánh Tét – Mẫu 3

Không biết từ bao giờ, trong các món ăn ngày Tết của người miền Nam luôn có mặt món bánh tét. Cũng ít ai giải thích được vì sao Tết đến phải gói bánh tét. Nhân ba ngày Tết, báo điện tử Infonet đã thử đi tìm hiểu nguồn gốc của tục lệ gói bánh tét ngày Tết.

Theo phong tục Tết cổ truyền nồi bánh tét được nấu vào đêm 30 đón giao thừa. Cả nhà thức chờ quanh nồi nấu bánh, trẻ con làm nhiệm vụ chụm bếp lò, tạo nên không khí ấm cúng, sung túc của buổi sum họp gia đình ngày Tết.

Tết, người Nam Bộ chỉ gói hai loại bánh tét là: bánh tét chay và bánh tét mặn. Bánh chay để cúng ông bà, trời đất, bánh mặn dùng trong bữa ăn. Bánh tét ăn kèm với củ kiệu, dưa chua, thịt kho tàu.

Một số sách vở cho rằng, bánh tét là sản phẩm của sự giao thoa nhiều nền văn hóa khác nhau tại miền Nam. Trong đó, chủ đạo là văn hóa Chăm với tín ngưỡng “phồn thực”. Hình dạng bánh tét là hình tượng Linga. Nó không chỉ là món ăn ngày Tết mà còn chứa đựng cả thuyết âm dương, tam tài, ngũ hành với năm màu sắc: màu xanh của lá gói bánh (lá dứa, lá dong hoặc lá chuối), của nếp được bỏ màu khi gói, màu vàng đậu xanh nhân bánh, hai màu đỏ, trắng của thịt ba chỉ làm nhân bánh và màu đen của tiêu trộn vào nhân đậu xanh hoặc ướp thịt nhân bánh. Đó là năm màu của ngũ hành trong triết học phương Đông: hỏa (màu đỏ), thủy (màu đen), mộc (màu xanh), kim (màu trắng), thổ (màu vàng).

Nguyên liệu làm bánh là từ động vật (thịt ba chỉ) và thực vật (lá gói, gạo nếp, đậu xanh), đại diện cho hai cực âm – dương. Ngoài ra, đậu và nếp cũng là hai cực âm – dương khi được trồng ở hai nơi: đậu trên cạn và lúa nếp dưới nước. Âm dương hòa quyện vào nhau không thể tách rời và làm nên một vật phẩm, một món ăn đặc trưng cho ngày Tết cổ truyền.

Mặt khác, tên gọi bánh tét có cách phát âm gần giống với từ “Tết” nên người ta cho rằng bánh tét là bánh Tết được đọc lệch đi theo cách ăn loại bánh này. Điều này giải thích vì sao bánh tét lại có mặt trong ba ngày Tết của người miền Nam.

Theo phong tục Tết cổ truyền nồi bánh tét được nấu vào đêm 30 đón giao thừa. Cả nhà thức chờ quanh nồi nấu bánh, trẻ con làm nhiệm vụ chụm bếp lò, tạo nên không khí ấm cúng, sung túc của buổi sum họp gia đình ngày Tết.

Tết, người Nam Bộ chỉ gói hai loại bánh tét là: bánh tét chay và bánh tét mặn. Bánh chay để cúng ông bà, trời đất, bánh mặn dùng trong bữa ăn. Bánh tét ăn kèm với củ kiệu, dưa chua, thịt kho tàu.

Một số sách vở cho rằng, bánh tét là sản phẩm của sự giao thoa nhiều nền văn hóa khác nhau tại miền Nam. Trong đó, chủ đạo là văn hóa Chăm với tín ngưỡng “phồn thực”. Hình dạng bánh tét là hình tượng Linga. Nó không chỉ là món ăn ngày Tết mà còn chứa đựng cả thuyết âm dương, tam tài, ngũ hành với năm màu sắc: màu xanh của lá gói bánh (lá dứa, lá dong hoặc lá chuối), của nếp được bỏ màu khi gói, màu vàng đậu xanh nhân bánh, hai màu đỏ, trắng của thịt ba chỉ làm nhân bánh và màu đen của tiêu trộn vào nhân đậu xanh hoặc ướp thịt nhân bánh. Đó là năm màu của ngũ hành trong triết học phương Đông: hỏa (màu đỏ), thủy (màu đen), mộc (màu xanh), kim (màu trắng), thổ (màu vàng).

Nguyên liệu làm bánh là từ động vật (thịt ba chỉ) và thực vật (lá gói, gạo nếp, đậu xanh), đại diện cho hai cực âm – dương. Ngoài ra, đậu và nếp cũng là hai cực âm – dương khi được trồng ở hai nơi: đậu trên cạn và lúa nếp dưới nước. Âm dương hòa quyện vào nhau không thể tách rời và làm nên một vật phẩm, một món ăn đặc trưng cho ngày Tết cổ truyền.

Mặt khác, tên gọi bánh tét có cách phát âm gần giống với từ “Tết” nên người ta cho rằng bánh tét là bánh Tết được đọc lệch đi theo cách ăn loại bánh này. Điều này giải thích vì sao bánh tét lại có mặt trong ba ngày Tết của người miền Nam.

Một truyền thuyết khác bổ sung thêm cho nguồn gốc của bánh tét, cách gọi tên bánh và thói quen ăn bánh tét trong ngày Tết được kể như sau:

Vào mùa xuân Kỷ Dậu năm 1789, Nguyễn Huệ và quân ta đánh đuổi quân Thanh ra khỏi đất nước. Lúc bấy giờ quân lính được nghỉ ngơi, ăn Tết. Trong số quân lính có anh lính nọ được người nhà gửi cho món bánh làm từ gạo nếp, nhân đậu xanh, hình dạng như bánh tét ngày nay (tuy nhiên lúc bấy giờ chưa có tên gọi). Anh lính mang bánh mời vua Quang Trung.

Vua ăn thấy ngon bèn hỏi thăm về loại bánh này. Anh lính kể, bánh do người vợ ở quê nhà làm gửi cho. Mỗi lần ăn bánh, anh càng thương, càng nhớ vợ nhiều hơn. Anh mắc chứng đau bụng (có thể xem là đau dạ dày) nhưng khi ăn bánh này thì lại không thấy đau nữa.

Nghe câu chuyện cảm động của anh lính, vua bèn ra lệnh cho mọi người gói loại bánh này để ăn Tết và đặt tên là bánh Tết nhằm ghi nhớ chiến thắng giặc Thanh vào mùa xuân và thể hiện tình cảm gia đình thắm thiết mỗi độ xuân về. Đó được xem là nguồn gốc của bánh tét trong ngày Tết cổ truyền.

Thuyết minh về bánh chưng Thuyết minh bánh chưng – Mẫu 1

Bánh chưng là biểu tượng không thể thiếu trong dịp Tết cổ truyền. Từ xa xưa đến nay, mỗi dịp Tết đến xuân về, người người nhà nhà lại chuẩn về những nồi bánh chưng rất to để đón Tết. Bởi trong tâm thức của mỗi người thì bánh chưng là món ăn mang ý nghĩa sum vầy, ý nghĩa đoàn viên bình dị nhưng ấm áp.

Người xưa vẫn lưu truyền rằng bánh chưng ngày Tết có từ rất lâu. Mọi người vẫn tin rằng bánh chưng bánh giầy có từ thời vua Hùng thứ 6, và cho đến ngày nay thì nó đã trở thành biểu tượng của Tết truyền thống tại Việt Nam. Người đời vẫn luôn cho rằng bánh chưng minh chứng cho sự tròn đầy của trời đất và sự sum vầy của gia đình sau một năm trời làm việc tất bật, vội vã.

Cho dù là ở miền Bắc, Trung hay Nam thì bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết. Có thể nói đây là món ăn được chờ đợi nhiều nhất, vì ngày Tết mới đúng là ngày thưởng thức bánh chưng ngon và ấm áp nhất.

Về nguyên liệu, bánh chưng được làm từ những thứ rất đơn giản và dễ chuẩn bị; kết hợp với bàn tay khéo léo của người gói bánh. Nguyên liệu chủ yếu là nếp, lá dong, thịt, đậu xanh giã nhỏ. Mỗi nguyên liệu đều được chọn lọc thật kĩ để có thể tạo nên món ăn ngon và đậm đà nhất. Về phần nếp thì người ta chọn những hạt tròn lẳn, không bị mốc để khi nấu lên ngửi thấy mùi thơm lừng của nếp. Đậu xanh chọn loại đậu có màu vàng đẹp, nấu nhừ lên và giã nhuyễn làm nhân. Người ta sẽ chọn thịt ba chỉ hoặc thịt nạc, trộn với tiêu xay, hành băm nhuyễn. Một nguyên liệu khác không kém phần quan trọng chính là lá dong để gói bánh. Ở một số vùng khác người ta dùng lá chuối gói bánh nhưng phổ thông nhất vẫn là lá dong.

Lá dong cần có màu xanh đậm, có gân chắc, không bị héo và rách nát. Hoặc nếu những chiếc lá bị rách người ta có thể lót bên trong chiếc lá lành để gói. Khâu rửa lá dong, cắt phần cuống đi cũng rất quan trọng vì lá dong sạch mới đảm bảo vệ sinh cũng như tạo mùi thơm sau khi nấu bánh..

Sau khi đã chuẩn bị tất cả các nguyên vật liệu thì đến khâu gói bánh. Gói bánh chưng cần sự tẩn mẩn, tỉ mỉ và khéo léo để tạo nên chiếc bánh vuông vắn cúng viếng ông bà tổ tiên. Nhiều người cần phải có khuôn vuông để gói nhưng nhiều người thì không cần, chỉ cần gấp 4 góc của chiếc lá dong lại là có thể gói được. Bao bọc xung quanh nhân đậu và thịt là một lớp nếp dày. Chuẩn bị dây để gói, giữ cho phần ruột được chắc, không bị nhão ra trong quá trình nấu bánh.

Công đoạn nấu bánh được xem là khâu quan trọng. Thông thường mọi người nấu bánh bằng củi khô, nấu trong một nồi to, đổ đầy nước và nấu trong khoảng từ 8-12 tiếng. Thời gian nấu lâu như thế là vì để đảm bảo bánh chín đều và dẻo. Khi nước bánh sôi, mùi bánh chưng bốc lên nghi ngút. Lúc đó mọi người bắt đầu cảm nhận được không khí Tết đang bao trùm lấy căn nhà.

Bánh chưng sau khi chín được mang ra và lăn qua lăn lại để tạo sự săn chắc cho chiếc bánh khi cắt ra đĩa và có thể để được lâu hơn.

Đối với mâm cơm ngày Tết thì đĩa bánh chưng là điều tuyệt vời không thể thiếu. Cũng như trên bàn thờ ngày tết, một cặp bánh chưng cúng tổ tiên là phong tục lưu truyền từ bao đời nay. Bánh chưng tượng trưng cho sự trọn vẹn của trời đất, cho những gì phúc hậu và ấm áp nhất của lòng người.

Trong ngày Tết có rất nhiều lấy bánh chưng làm quà biếu, và đây chính là món quà ý nghĩa tượng trưng cho lòng thành, cho sự chúc phúc tròn đầy nhất.

Mỗi dịp Tết đến xuân về, bánh chưng bốc lên nghi ngút chính là báo hiệu cho sự ấm áp của gia đình. Bánh chưng là biểu tượng ngày Tết mà không có bất cứ loại bánh nào có thể thay thế được. Vì đây là truyền thống, là nét đẹp của con người Việt Nam, cần gìn giữ và tôn trọng từ quá khứ, hôm nay và cả ngày mai nữa.

Thuyết minh bánh chưng – Mẫu 2

Ngày tết là một ngày mà tất cả mọi người đều coi trọng. Đó là những ngày được coi là ngày hên xui cả năm. Nên mọi người chọn gì để trưng bày ngày tết, ăn uống trong ngày tết rất được chú ý. Tại sao mọi người lại chọn gà để cúng đầu năm mà không chọn vịt? đó là vì gà đem lại may mắn cho họ. Ngày đầu năm có rất nhiều thứ, nhiều món ăn rất kiêng kỵ.

Các món ăn được mọi người chọn lựa một cách kỹ càng. Để cầu may cho cả gia đình. Ví dụ như đầu năm người ta thường làm bánh chưng, bánh tét để cúng ông bà tổ tiên của họ. Nguyên liệu được làm bằng nếp, gạo để diễn tả cho sự may mắn, quanh năm đều có gạo, nếp trong nhà. Còn thể hiện sự đầy đủ, cơm ăn áo mặc. Không chỉ vậy, trái cây còn được mọi người chuẩn bị rất đầy đủ như đu đủ, dừa, mãng cầu và một số loại nữa thể hiện cho sự cầu vừa đủ xài trong năm.

Nói đến món ăn không thể nào khước từ được chiếc bánh chưng trong ngày tết. Chiếc bánh chưng thể hiện cho nét văn hóa dân tộc từ bao đời nay. Nó có từ rất lâu, thể hiện cho những công đoạn cực khổ mới có được nó. Như từ khi gieo hạt, trồng cấy, thu hái, xay giã, gói luộc đối với người nông dân ở miền xuôi, miền ngược, miền Bắc, miền Nam. Và, bánh chưng cũng có thể được mua như mua các loại hàng hoá khác đối với những người dân các vùng đô thị trong nước và ở nước ngoài. Chiếc bánh chưng ngày tết dù tự túc, tự sản hay được mua bán như những thứ hàng hoá khác nhưng đều có chung một điểm: Đó là sản vật không thể thiếu để dâng cúng lên cha mẹ, ông bà, tổ tiên trong ngày Tết.

Không chỉ vậy, khi chúng ta ăn một miếng bánh chưng sau khi cúng lễ tổ tiên, ông bà, cha mẹ, dư vị thời gian, không gian huyền thoại của lịch sử như cùng quy tụ trong màu xanh của bánh, mùi thơm thảo của hạt nếp tiền nhân để cùng suy ngẫm về ý nghĩa triết học và giá trị nhân văn của các truyền thuyết, các sự tích về bánh chưng của người Việt. Bên cạnh đó, chiếc bánh chưng làm ta nhớ đến những nét đẹp văn hóa từ bao đời nay và đó cũng là một cách di dưỡng tinh thần, làm giàu thêm bản sắc văn hoá tâm linh và văn hoá ẩm thực Việt Nam.

Thuyết minh bánh chưng – Mẫu 3

Ngày xửa ngày xưa vua Hùng muốn nhường lại ngôi vua của mình cho các con nên đã truyền cho hoàng tử nào dâng lên vua những vật có ý nghĩa và lạ nhất thì có thể thay vua trị vị đất nước. Khi ấy Lang Liêu đã làm ra hai loại bánh trong đó có bánh chưng tượng trưng cho trái đất. Và khi bánh chưng có từ ngày đó, loại bánh này có ý nghĩa gì mà con người Việt Nam chúng ta lại coi nó là một trong ba đồ sử dụng trong ngày tết?.

Về truyền thuyết của bánh chưng thì chúng ta biết nó ra đời trong sự kiện vua Hùng Vương nhường ngôi cho các con trai của mình. Ông vua ấy đã truyền lệnh cho tất cả những người con mang đến những lễ vật. Không giống như những anh trai mang vàng bạc châu báu mà người con út của Vua Hùng lại dâng lên vua cha hai loại bánh là bánh chưng và bánh dày. Bánh chưng có từ đó để tượng trưng cho trái đất hình vuông.

Đến ngày nay thì nhân dân ta đã sử dụng bánh chưng vào ngày tết giống như một truyền thống đặc trưng. Vật liệu để làm bánh chưng bao gồm lá dong, gạo nếp đã ngâm nở ra, đỗ ngâm bỏ vỏ, thịt lợn, lạt… tất cả những vật liệu ấy đều không thể thiếu được.

Về cách gói bánh thì nhân dân ta thường gói bánh theo hai hình là hình vuông truyền thống và hình tròn dài. Theo cách gói bánh vuông truyền thống nếu muốn cho bánh đẹp vuông vắn thì lá dong phải to và dài, xếp hai lá lên nhau đổ một lớp gạo xuống sau đó là một ít đỗ bên trên tiếp đến là miếng thịt đã ướp gia vị và cuối cùng là một lớp đỗ và gạo đỗ lên trên cùng. Công đoạn nguyên liệu bên trong đã đủ thì chúng ta gấp các lá bánh lên sao cho vuông vắn và ôm sát vào những nguyên liệu bên trong. Khi này chúng ta phải lấy tay ấn thật chặt cho gạo đỗ đổ đầy vào những chỗ hở để tạo thành một hình vuông vắn. Khi đã có một khối vuông vắn thì chúng ta phải lấy những chiếc lạt buộc cố định lại để đem đi luộc. Còn đối với bánh tròn dài thì cũng tương tự nhưng cần đến lá dài hơn buộc bánh theo hình dài chứ không nén chặt theo hình vuông. Thường nhân dân ta hay gói bánh chưng vào những ngày cuối năm như 29 hoặc 30 để đón năm mới hay cùng nhau trông bánh chưng chờ giao thừa qua. Những nồi bánh ấm nồng cùng với sự sum họp quây quần của anh chị em bên nhau như xua tan đi mọi cái giá lạnh đầu mùa xuân. Mọi người không còn những ưu tư phiền muộn mà chỉ còn khoảnh khắc hạnh phúc bên nhau mà thôi.

Bánh chưng trong ngày tết có những ý nghĩa rất lớn. Tuy khoa học đã chứng minh rằng trái đất không phải là hình vuông như người xưa trong truyền thuyết nói nhưng qua bánh chưng ấy người Việt ta bày tỏ những tấm lòng nhớ về người xưa tổ tiên ông bà đã sáng tạo và để lại loại bánh có ý nghĩa ấy. Không những thế nó được sử dụng trong ngày tết vì nó có sự đầy đủ của nhiều thứ nguyên liệu và có vị ngon hấp dẫn. Chính vì thế mà nó không thể nào vắng mặt trong ngày tết truyền thống của nhân dân ta.

Không những thế mà bánh chưng còn để thắp hương thờ cúng ông bà tổ tiên trong những ngày tết. Nhân dân ta sẽ chọn những chiếc bánh đẹp nhất để có thể đem lên bày trên bàn thờ ông bà với những món hoa quả bánh kẹo trên đó.

Bánh chưng còn làm cho mọi người sum họp gần gũi nhau hơn và có một cái tết ấm lòng không. Anh chị em quây quần bên nhau cùng gói bánh cùng nói chuyện cười vui tươi chào mừng năm mới đến. Không kể lúc luộc bánh tất cả cùng ngồi trông bánh bên ngọn lửa hồng.

Đặc biệt bánh ăn nóng rất ngon tuy nhiên khi nó nguội rồi nhân dân ta còn có thể cắt chúng ra từng miếng nhỏ đem rán lên ăn rất là ngon và thơm. Những người không ăn được mỡ thì cũng có thể ăn được bởi vì khi ninh nhừ như thế rồi thì thịt mỡ không còn ngấy như khi luộc bình thường nữa mà nó rất dễ ăn.

Tóm lại bánh chưng có ý nghĩa rất lớn trong đời sống cũng như tình cảm của nhân dân ta trong ngày tết truyền thống. Và từ khi xuất hiện cho đến ngày nay bánh chưng như khẳng định sự thơm ngon hấp dẫn cùng với những ý nghĩa của mình. Vì vậy bánh chưng không thể vắng mặt trong gia đình Việt nam ngày Tết.

Thuyết minh bánh chưng – Mẫu 4

Người xưa vẫn lưu truyền rằng bánh chưng ngày Tết có từ rất lâu. Mọi người vẫn tin rằng bánh chưng bánh giầy có từ thời vua Hùng thứ 6, và cho đến ngày nay thì nó đã trở thành biểu tượng của Tết truyền thống tại Việt Nam. Người đời vẫn luôn cho rằng bánh chưng minh chứng cho sự tròn đầy của trời đất và sự sum vầy của gia đình sau một năm trời làm việc tất bật, vội vã.

Theo những câu chuyện đã truyền lại thì bánh chưng có từ thời các vua Hùng. Đó là vào thời vua Hùng Vương thứ 6, khi tìm người kế vị ngai vàng, ông đã yêu cầu các hoàng tử dâng lên một món ăn mà họ cho là ngon nhất. Món ăn của ai ngon sẽ được chọn làm vua. Hầu hết các hoàng tử đều chọn làm các món sơn hào hải vị và dĩ nhiên là chúng rất ngon. Chỉ có Lang Liêu là làm bánh chưng bánh dày. Chiếc bánh chưng bánh dày làm từ gạo tượng trưng cho đất và trời đã thuyết phục tất cả mọi người và chàng được chọn lên làm vua kế vị.

Cho dù là ở miền Bắc, Trung hay Nam thì bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết. Có thể nói đây là món ăn được chờ đợi nhiều nhất, vì ngày Tết mới đúng là ngày thưởng thức bánh chưng ngon và ấm áp nhất. Chiếc bánh chưng có hình vuông đẹp mắt, gói bên ngoài bằng những chiếc lá dong xanh mướt. Người ta dùng những chiếc lạt để buộc bánh chưng lại cho chặt. Những nguyên liệu để làm bánh chưng là những nguyên liệu vô cùng quen thuộc với người Việt Nam. Nhân bánh được làm từ gạo nếp, đậu xanh và thịt lợn. Ngoài ra còn có thêm một vài loại gia vị nữa như muối, hạt tiêu, hành,… Lá dong dùng để gói bánh thường là lá dong bánh tẻ. Có như vậy thì bánh mới ngon, bánh luộc lên lá vẫn xanh và khi bóc thì không bị dính. Lạt được chẻ và tước mỏng ra từ những cây giang. Lạt giang chẻ phải thật mỏng, đủ mềm để buộc bánh dễ dàng. Lạt chẻ có màu vàng ngà khi gói với lá dong xanh sẽ tạo thành hai màu đối lập nổi bật trông rất đẹp. Gạo dùng để nấu bánh chưng nên là gạo nếp cái hoa vàng bởi đây là loại gạo ngon, thơm. Muốn nấu bánh được dẻo thì gạo phải ngâm trước từ đêm với nước nóng khoảng 8 tiếng sau đó đem vo lại rồi xóc cho ráo nước. Đậu xanh dùng loại đã đãi vỏ hoặc mua loại có vỏ về ngâm với nước nóng rồi tự đãi vỏ. Thịt lợn thường dùng loại thị 3 chỉ vì có cả nạc cả mỡ. Thịt xắt miếng to cỡ nửa bàn tay sau đó ướp với gia vị cho ngấm. Chọn lá dong to đẹp rồi đem rửa sạch và lau khô trước khi gói. Khi tiến hành gói bánh chưng bạn đặt tất cả các nguyên liệu cần thiết xung quanh. Cần có thêm một chiếc kéo để cắt lá dong. Đặt lá dong lên bề mặt phẳng, sạch, người Việt thường đặt lên mâm. Khoảng 3-4 chiếc lá dong sẽ gói được một chiếc bánh chưng. Đầu tiên múc một bát gạo đổ vào giữa lá dong, dàn đều rồi cho nửa bát đỗ, 2 miếng thịt, nửa bát đỗ và thêm 1 bát gạo nữa. Đãi gạo sao cho gạo che kín đỗ và thịt. Lúc này nhẹ nhàng bẻ bốn góc lá cho vuông vức. Sau cùng dùng lạt buộc chặt chiếc bánh lại. Nếu muốn đẹp có thể dùng khuôn để gói bánh. Sau khi gói hết chỗ nhân đã chuẩn bị thì buộc bánh theo từng cặp và xếp vào nồi to, mang ra bếp củi đun trong khoảng 8-10 tiếng. Trong quá trình đun phải canh để lửa cháy đều và thêm nước nóng vào nồi luộc bánh nếu như thấy nước cạn. Đó là lý do vì sao ta thấy người Việt luôn đặt một ấm nước bên cạnh nồi luộc bánh chưng.

Đối với mâm cơm ngày Tết thì đĩa bánh chưng là điều tuyệt vời không thể thiết. Cũng như trên bàn thờ ngày tết, một cặp bánh chưng cúng tổ tiên là phong tục lưu truyền từ bao đời nay. Bánh chưng tượng trưng cho sự trọn vẹn của trời đất, cho những gì phúc hậu và ấm áp nhất của lòng người. Trong ngày Tết có rất nhiều lấy bánh chưng làm quà biếu, và đây chính là món quà ý nghĩa tượng trưng cho lòng thành, cho sự chúc phúc tròn đầy nhất.

Mỗi dịp Tết đến xuân về, mùi thơm bánh chưng bốc lên nghi ngút chính là báo hiệu cho sự ấm áp của gia đình. Bánh chưng là biểu tượng ngày Tết mà không có bất cứ loại bánh nào có thể thay thế được. Vì đây là truyền thống, là nét đẹp của con người Việt Nam, cần gìn giữ và tôn trọng từ quá khứ, hôm nay và cả ngày mai nữa.

Thuyết minh bánh chưng – Mẫu 5

Nước Việt Nam ta từ bao đời nay có nhiều truyền thống đạo lý tốt đẹp. Cha ông ta đã giữ gìn những nét đẹp ấy và rồi truyền lại cho con cháu đời sau tiếp tục nối tiếp và lưu giữ những truyền thống ấy. Trong số đó, không thể không nhắc đến bánh chưng, một loại bánh mà sự ra đời của nó là cả một câu chuyện li kì, hấp dẫn.

Theo truyền thuyết, đời vua Hùng Vương thứ 6, sau khi phá xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con. Nhân dịp đầu xuân, vua họp các hoàng tử lại, bảo rằng: “Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho”. Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng. Riêng người con trai thứ 18 của Hùng Vương là Lang Liêu (tính tình thuần hậu, chí hiếu, song vì mẹ mất sớm, không có người mẹ chỉ vẽ cho) rất lo lắng không biết làm sao, bỗng nằm mơ thấy có vị Thần đến bảo: “Này con, vật trong trời đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình trời và đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình cha mẹ sinh thành.” Lang Liêu vô cùng mừng rỡ và làm theo lời Thần dặn. Ông chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuông để tượng trưng cho đất, bỏ vào chõ chưng chín gọi là bánh chưng. Ông giã xôi làm bánh tròn, để tượng trưng cho trời, gọi là bánh dầy. Lá xanh bọc ở ngoài và nhân ở trong ruột bánh là tượng hình cha mẹ yêu thương đùm bọc con cái. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon và có ý nghĩa, bèn truyền ngôi vua lại cho Lang Liêu. Kể từ đó, mỗi dịp đến Tết cổ truyền, thì dân chúng đều làm bánh chưng và bánh dày để dâng cúng tổ tiên, trời đất.

Về nguyên liệu, bánh chưng được làm từ những thứ rất đơn giản và dễ chuẩn bị; kết hợp với bàn tay khéo léo của người gói bánh. Nguyên liệu chủ yếu là gạo nếp, lá dong, thịt, đậu xanh giã nhỏ. Mỗi nguyên liệu đều được chọn lọc thật kĩ để có thể tạo nên món ăn ngon đậm đà nhất. Về phần gạo nếp thì người ta chọn những hạt tròn lẳn, không bị mốc để khi nấu lên ngửi thấy mùi thơm lừng của nếp. Đậu xanh chọn loại đậu có màu vàng đẹp, nấu nhừ lên và giã nhuyễn làm nhân. Người ta sẽ chọn thịt ba chỉ hoặc thịt nạc, trộn với tiêu xay, hành băm nhuyễn. Một nguyên liệu khác không kém phần quan trọng chính là lá dong để gói bánh. Ở một số vùng khác người ta dùng lá chuối gói bánh nhưng phổ thông nhất vẫn là lá dong. Lá dong cần có màu xanh đậm, có gân chắc, không bị héo và rách nát. Hoặc nếu những chiếc lá bị rách người ta có thể lót bên trong chiếc lá lành để gói. Khâu rửa lá dong, cắt phần cuống đi cũng rất quan trọng vì lá dong sạch mới đảm bảo vệ sinh cũng như tạo mùi thơm sau khi nấu bánh. Sau khi đã chuẩn bị tất cả các nguyên vật liệu thì đến khâu gói bánh. Gói bánh chưng cần sự tẩn mẩn, tỉ mỉ và khéo léo để tạo nên chiếc bánh vuông vắn cúng viếng ông bà tổ tiên. Nhiều người cần phải có khuôn vuông để gói nhưng nhiều người thì không cần, chỉ cần gấp bốn góc của chiếc lá dong lại là có thể gói được. Bao bọc xung quanh nhân đậu và thịt là một lớp nếp dày. Chuẩn bị dây để gói, giữ cho phần ruột được chắc, không bị nhão ra trong quá trình nấu bánh.Công đoạn nấu bánh được xem là khâu quan trọng. Thông thường mọi người nấu bánh bằng củi khô, nấu trong một nồi to, đổ đầy nước và nấu trong khoảng từ 8-12 tiếng. Thời gian nấu lâu như thế là vì để đảm bảo bánh chín đều và dẻo. Khi nước bánh sôi, mùi bánh chưng bốc lên nghi ngút. Lúc đó mọi người bắt đầu cảm nhận được không khí Tết đang bao trùm lấy căn nhà.

Trong những ngày rằm, mùng 1 hay ngày lễ Tết, giỗ chạp, trên mâm cỗ cúng của người Việt không thể nào thiếu được chiếc bánh chưng. Loại bánh này đã đi sâu vào truyền thống văn hóa của dân tộc và trở thành món ăn tinh thần của người dân Việt Nam. Bánh chưng là biểu tượng cho đất nơi mà con người sinh ra và lớn lên. Trong những ngày Tết cổ truyền, không có gia đình Việt Nam nào lại thiếu vắng những chiếc bánh chưng xanh trên bàn thờ, trên mâm cúng ông bà, tổ tiên. Ngày nay, cuộc sống ngày càng bận rộn nên mọi nhà có thể tự làm hoặc được mua. Nhưng cho dù mua hay tự làm thì bánh chưng vẫn là một nét đẹp lâu đời không gì thay thế được trong văn hoá tâm linh của người Việt. Trong tâm khảm của những người Việt xa quê, bánh chưng vẫn giữ nguyên ý nghĩa và sức sống mãnh liệt của nó. Ngay tiểu bang California ở Mỹ là nơi có nhiều người Việt sinh sống. Vào đầu năm ngoái, Việt kiều ở đây rất vui khi được Ban Y tế California nhận định: “Bánh chưng là một loại văn hoá ẩm thực ngàn xưa của người Việt Nam”, nên Ban này đã thông qua dự luật AB-2214 về việc cho phép bán bánh chưng.

Ngày tết, ăn một miếng bánh chưng sau khi cúng lễ tổ tiên, ông bà, cha mẹ, dư vị thời gian, không gian huyền thoại của lịch sử như cùng quy tụ trong màu xanh của bánh, mùi thơm thảo của hạt nếp tiền nhân để cùng suy ngẫm về ý nghĩa triết học và giá trị nhân văn của các truyền thuyết, các sự tích về bánh chưng của người Việt. Đó cũng là một cách di dưỡng tinh thần, làm giàu thêm bản sắc văn hoá tâm linh và văn hoá ẩm thực Việt Nam.

Thuyết minh bánh chưng – Mẫu 6

Bánh chưng là một trong những món ăn không thể thiếu trong mỗi gia đình Việt Nam mỗi dịp Tết đến xuân về. Từ bao đời nay, bánh chưng đã như một món ăn gắn bó, sum vầy, mang đậm hương vị Tết cổ truyền dân tộc.

Truyện xưa kể rằng, từ đời Hùng Vương thứ 6, hoàng tử Lang liêu đã được vua cha lựa chọn để truyền ngôi với món bánh chưng, một thức bánh làm từ lúa gạo, do chính con người làm ra. Bánh chưng thường đi liền với bánh dày, nếu như bánh dày hình tròn, tượng trưng cho trời thì bánh chưng lại hình tượng trưng cho đất, con người luôn phải biết ơn mảnh đất đã sinh ra và nuôi sống chúng ta. Bánh chưng bao gồm những nguyên liệu rất đơn giản: Lá dong dùng để gói bánh, gạo nếp làm vỏ bánh và đỗ xanh, thịt lợn, hành làm nhân bánh. Để chuẩn bị gói bánh chưng, ta phải chuẩn bị những lá dong với nhiều kích cỡ, rửa sạch. Gạo nếp và đỗ xanh phải được ngâm sẵn, thịt lợn thái miếng và hành thái lát mỏng. Sau đó đến công đoạn gói bánh chưng. Ngày trước ông bà ta gói bánh chưng thuần túy bằng tay, nhưng bây giờ thường có khuôn để gói bánh được vuông vắn và dễ dàng hơn. Đầu tiên là đặt hai chiếc lạt biên dưới khuôn, sau đó xếp một lớp lá dong vuông vắn lên bốn mép khuôn. Tiếp theo là một lớp gạo nếp. Sau khi đã đổ gạo nếp lần thứ nhất, ta sẽ cho nhân bánh chưng gồm có đỗ, thịt và hành vào, xan đều ra giữa bánh rồi lại đổ thêm một lớp gạo nếp nữa. Cuối cùng là gói bánh lại và dùng lạt để cố định bánh cho chắc chắn. Khi gói bánh ta không nên xê dịch để tránh bị góc lệch. Những chiếc bánh chưng được coi là đạt tiêu chuẩn khi phần gạo và nhân bánh được nằm vuông vắn trong lớp lá, khi gói bánh chưng, không được cho lớp lá quá mỏng hay rách bởi nếu vậy khi luộc ruột bánh sẽ bị bung ra ngoài. Sau khi gói xong bánh chưng, ta cần chuẩn bị một nồi lớn để luộc bánh, thường thì sẽ luộc bánh chưng bằng bếp củi vì mất khá nhiều thời gian, xếp lần lượt bánh chưng vào nồi sau đó đổ nước vào, để lửa cháy âm ỉ trong khoảng 6-10 tiếng. Bánh chưng cần luộc lâu để chín đều và mềm thơm. Sau khi luộc xong bánh chưng cần được ép cho vuông vắn. Lúc ấy một chiếc bánh chưng mới hoàn chỉnh.

Advertisement

Bánh chưng thường được dùng để cúng ông bà tổ tiên, mang làm quà biếu tặng mỗi dịp Tết đến xuân về, vừa gần gũi lại vừa lịch sự. Bóc bánh chưng, màu bánh phải xanh màu lá dong, gạo phải mềm và chín tới mới ngon. Bánh chưng không cắt bằng dao mà dùng chính lạt gói bánh để cắt rất dễ dàng. Lớp vỏ bánh dính chặt và thơm mùi gạo nếp, mùi lá dong, đỗ bở tới, quyện với thịt lợn và hành tươi tạo nên một hương vị độc đáo và riêng biệt. Bánh chưng thường được ăn kèm với hành muối và dưa món,… Những chiếc bánh chưng trong mâm cơm ngày Tết vừa là món ăn thân thuộc vừa là mong chờ và niềm chúc cho những điều tốt đẹp trong năm mới sẽ đến với mỗi gia đình.

Cho dù xã hội có phát triển đến đâu, những món ăn mới và ngon như thế nào có ra đời, vị trí của bánh chưng trong mỗi dịp lễ trọng đại của dân tộc vẫn không thể thay thế. Món bánh chưng mộc mạc giản dị mà đầy ý nghĩa, vừa là sự biết ơn với ông cha ta, vừa là nét đẹp văn hóa không thể phai mờ.

Thuyết minh về món dưa muối

Vào ngày tết, bên cạnh bánh kẹo, mứt dưa, hoa trái thì không thể thiếu những món ăn đậm đà và đặc trưng mang vị dân tộc. Đó là bánh chưng xanh gói lá chuối, là nồi thịt kho tàu thơm ngon và không thể không nhắc đến món dưa chua dân giã, một món ăn đầy hấp dẫn.

Không biết được con người sáng tạo ra từ bao giờ nhưng có lẽ là từ rất lâu lắm rồi, món ăn này đã ra đời và trở thành quen thuộc trong các bữa ăn của các gia đình. Đặc biệt là vào những ngày tết cổ truyền, mỗi gia đình thường làm cho mình một hũ dưa món màu sắc không chỉ đẹp về thẩm mỹ mà còn mang lại vị chua ngon, hấp dẫn khi thưởng thức.

Món dưa không quá cầu kỳ trong cách làm, thực phẩm chuẩn bị cũng không quá đắt đỏ. Có khi chỉ có trong tay vài chục đến một trăm ngàn là có thể mua đủ nguyên liệu làm một hũ dưa muối ngon lành. Bởi thế mà vào những ngày cuối cùng của năm, trong mỗi chiếc làn, chiếc giỏ của những người bà, người mẹ khi chợ về không thể không có những củ cà rốt đỏ tươi, những củ hành, củ kiệu trắng và những quả đu đủ ươm vàng.

Nói như vậy để thấy rằng những nguyên liệu món này khi làm cần phải có là cà rốt, củ cải, đu đủ, hành tím, sự hào, ớt đỏ….ngoài ra còn cần các gia vị đi kèm như nước mắm, đường, lạc . Tùy thuộc vào sở thích mà người làm có thể thêm bớt một vài nguyên liệu, song về cơ bản các nguyên liệu kể trên nếu đầy đủ sẽ mang lại một hũ dưa món đủ vị khi ăn.

Khi có sẵn nguyên liệu, người ta bắt tay vào làm dưa món. Khâu đầu tiên là gọt vỏ, rửa sạch tất cả các loại củ cần làm. Đây là bước không thể thiếu để đảm bảo vệ sinh cho thực phẩm. Sau khi làm sạch, dùng dao thái rau củ ra thành các miếng nhỏ, mỗi miếng dày từ 3 đến 5 xăng- ti- mét. Để tạo tính thẩm mĩ cho món ăn, có thể dùng dao cắt tỉa thanh hoa hay những đường vân dài thật đẹp. Những rau củ khi được cắt xong thì cho vào thau, dùng muối bóp trong khoảng 10 phút, rồi từ từ dùng nước lạnh rửa qua một lần nữa, vớt lên cho ráo rồi đem ra phơi nắng. Thời tiết càng nắng thì rau củ càng nhanh héo, món ăn dễ thấm gia vị và ngon hơn rất nhiều. Trường hợp tết đúng vào đợt gió mùa, mưa rét trời không có nắng có thể dùng lò sưởi, lò sấy để thay thế. Lúc rau củ đang dần héo, người làm sẽ vào bếp chuẩn bị nước muối dưa. Đây là khâu quan trọng vì làm nước càng ngon thì món dưa càng đậm đà hơn. Bắc nồi lên bếp, trộn đường, muối và nước mắm rồi đun sôi trong khoảng từ 5 đến 7 phút. Sau đó tắt bếp, chờ cho đến khi nước nguội hoàn toàn. Khi dưa đã héo, nước đã nguội, lần lượt sắp dưa vào những hũ thủy tinh sáng bóng, đổ nước vào hũ sao cho ngập hết phần rau củ, đậy lại và chờ đợi thành phẩm của mình. Dưa muối trong khoảng hai ngày là có thể đem ra để thưởng thức.

Thành phẩm dưa món thành công là sau khi hoàn thành vẫn giữ được màu sắc đẹp của rau củ. Dưa khi vớt ra ăn phải đảm bảo giòn, không quá mềm, thơm ngon, vừa có vị ngọt, vừa có vị chua hấp dẫn.

Món dưa món ăn kèm với bánh chưng, thịt kho, cơm nóng thì còn gì tuyệt vời hơn. Nó không chỉ giúp người ăn đỡ ngán lại vừa đem lại cảm giác thèm ăn bởi vị chua đặc trưng. Dưa món còn là một trong những mồi nhấm nháp cùng chén rượu thơm của các bác, các anh trong ngày đầu họp mặt.

Ngày nay, xã hội càng phát triển, người ta càng chú trọng đến những bữa ăn ngon, những món ăn đắt tiền, sang trọng, nhưng món dưa món vẫn giữ một vị trí quan trọng trong bữa ăn ngày Tết. Nó trở thành một hương vị Tết trong tâm hồn người dân Việt Nam.

Thuyết minh về món thịt kho tàu

Ngày Tết có vô số những món ăn, bánh kẹo trái cây rất ngon. Đối với những món mặn em rất thích thịt kho tàu đậm đà hương vị miền Nam trong những ngày tết nguyên đán.

Tên gọi thịt kho tàu hay còn gọi là thịt kho hột vịt có nguồn gốc từ Trung Quốc thường được nhiều gia đình miền Nam chế biến trong bữa cơm gia đình, ưu điểm là thịt giữ được lâu dùng trong nhiều ngày.

Sau khi hoàn thành sơ chế thịt hãy ướp thịt với gia vị như muối, đường, tỏi, hành tím, ớt, nước mắm… chờ trong 15 phút để gia vị ngấm đều vào thịt mới ngon. Trứng vịt cho vào nồi nước luộc chín, bỏ vỏ. Chuẩn bị một cái nồi, cho nồi lên bếp, đổ dầu ăn vào làm nóng, thịt cho vào nồi xào nhẹ, thêm một ít nước màu và nước mắm vào giúp tạo độ mặn mà cho món thịt kho tàu, đợi khi nào nước sôi lên hãy cho nước dừa rồi trộn đều. Lúc này để ngọn lửa vừa và quan sát khi thịt mềm cho trứng vịt vào nồi, vặn nhỏ lửa và đợi trong khoảng 1- 2 tiếng thịt sẽ chín hoàn toàn.

Món thịt kho tàu thường có trong mâm cơm ngày Tết của người miền Nam, với món thịt kho tàu dùng kèm cơm với dưa kiệu ăn nhiều mà không có cảm giác ngán. Thịt kho tàu chắc chắn là món ăn ngon ngày Tết của nhiều gia đình Việt.

Thuyết minh về món củ kiệu

Đối với những người Việt Nam Tết là thời gian quý báu để quay về với những giá trị gia đình và truyền thống, ẩm thực cũng vậy, củ kiệu là món ăn truyền thống ngày Tết của nhiều thế hệ gia đình Việt. Thấy củ kiệu là thấy Tết đang về.

Cũng như Tết phải có bánh chưng bánh giầy, củ kiệu cũng không thể thiếu trong bữa ăn gia đình ngày Tết. Củ kiệu làm không khó nhưng mỗi vùng miền lại có một hương vị riêng. Để có củ kiệu ngon, công đoạn chọn kiệu và ngâm kiệu cực kỳ quan trọng, kiệu nên chọn loại thân vừa phải, đuôi nhỏ và không chọn kiệu trâu vì thân to chứa nhiều nước, khi ăn sẽ bị ngấm nước ăn sẽ không ngon. Kiện sau khi được chọn, rửa sạch, cắt củ, bỏ lá. Để món củ kiệu ngon không thể thiếu các loại củ quả khác đó là cà rốt, củ cải, đu đủ sống,… tất cả đều chọn lựa kĩ, sau đó gọt vỏ, rửa với nước sạch, cà rốt thái sợi, đu đủ thì thái cắt thành từng khúc. Riêng với phần kiệu cho vào nước pha 1 muỗng cà phê phèn chua, ngâm 5 phút, sau đó vớt tất cả ra rổ và mang phơi nắng. Phơi nắng là công đoạn cũng rất quan trọng, nếu phơi quá lâu củ sẽ mất nước, khô héo còn nếu phơi chưa đủ nắng ăn cũng không ngon.

Khi hoàn thành công đoạn phơi nắng là đến lúc pha nước ngâm, chuẩn bị nước mắm, dấm, đường, muối, tất cả trộn đều sau đó cho vào hủ, đừng quên cắt vài lát ớt để món củ kiệu thêm hương vị. Món củ kiệu đã được hoàn thành, bạn và gia đình có thể dùng ngay hoặc chờ sau vài ngày.

Trong cuộc sống hiện đại những món ăn nhiều hương vị xuất hiện ngày càng nhiều nhưng không sao thơm ngon bằng món củ kiệu tự làm, Tết không thể thiếu vắng đi những hủ củ kiệu chua ngọt trong bữa ăn gia đình. Những con người xa quê dù không phải ngày lễ Tết nhìn món củ kiểu cảm thấy nhớ nhung một không khí sum họp của những ngày Tết quê hương.

Văn Mẫu Lớp 10: Thuyết Minh Về Ngôi Trường (Dàn Ý + 16 Mẫu) Thuyết Minh Về Ngôi Trường

I. Mở Bài

– Ngôi trường em đang theo học là trường Trung học phổ thông Yên Định I, ngôi trường như ngôi nhà thứ hai của em vậy, thật thân thương và đẹp đẽ.

II. Thân Bài

– Trường em được thành lập vào năm 1995, tại đường Quán Lào, phường Hoà Khánh Bắc, quận Yên Định thành phố Thanh Hóa.

– Trường có diện tích khá lớn, bố trí hợp lí các khu học tập, khu vui chơi, khu thể dục thể thao, khu vệ sinh, nhà để xe và hệ thống thoát nước

– Sân trường rộng với nhiều loại cây xanh tỏa bóng mát, nhiều loại hoa rực rỡ mang lại không gian xanh.

– Trường có hơn 1400 giáo viên và học sinh. Theo thời gian số lượng cán bộ giáo viên và học sinh ngày càng tăng.

– Thầy cô cán bộ giáo viên trong nhà trường đều tâm huyết với nghề.

– Học sinh trường trung học phổ thông Yên Định I có truyền thống hiếu học.

– Trường đạt nhiều thành tích nổi bật.

III. Kết Bài

– Ngôi trường yêu dấu đã cùng em lớn lên và trưởng thành, sau này, dẫu có đi xa, em vẫn luôn mãi nhớ về mái trường cùng thầy cô bè bạn, nơi lưu giữ những kí ức tuyệt vời với những năm tháng chẳng thể nào quên của tuổi học trò.

Nhắc đến hai tiếng ngôi trường, trong tôi lại không khỏi bồi hồi, xúc động nhớ về những năm tháng học tập dưới mái trường thân yêu này, trường THCS Lý Tự Trọng. Đây là ngôi trường cấp 2 có bề dày lịch sử hàng chục năm và là một trong những trường điểm của thành phố.

Những năm trước đây, trường nằm chung khuôn viên với trường cấp 1 nên học sinh 2 cấp cùng học chung một trường. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm tôi vào học lớp 6, trường đã tách riêng. Trường của tôi được xây dựng trên một mảnh đất rất rộng, mặt trước của trường giáp với con đường đôi đẹp nhất thành phố. Lúc mới hoàn thiện, trường còn chưa có cổng, tôi vẫn nhớ cánh cổng tạm làm bằng thân cây tre ọp ẹp. Bây giờ, trường đã có cổng sắt, có biển hiệu vô cùng khang trang. Những cái cây xanh trồng trong sân trường sau 4 năm học cũng đã lớn lên nhiều. Chúng trở thành người bạn của học sinh trường tôi trong những giờ ra chơi. Sân trường giờ đây đã được đổ bê tông rất sạch sẽ. Chúng tôi có thể thoải mái chạy nhảy mà không còn lo bụi như trước nữa.

Trường học của tôi có tất cả 30 phòng học, chia làm 3 tầng. Mỗi lớp sở hữu một phòng học riêng. Ngoài ra, trường còn có phòng chức năng như phòng thí nghiệm môn Vật lý, môn Hóa học, phòng Tin học, phòng học Tiếng Anh,… Các phòng học chức năng đều được trang bị máy móc hiện đại, đầy đủ đồ dùng thí nghiệm phục vụ cho việc học của mỗi học sinh. Ở tất cả các lớp học, sàn đều được lát gạch hoa, có cửa sổ đón ánh sáng, có trang bị cả quạt trần và quạt treo tường. Ngoài ra, mỗi lớp còn tự trang trí để lớp học của mình thêm đẹp hơn. Lớp tôi có một chiếc tủ sách ở cuối lớp với rất nhiều đầu sách hay.

Để được là học sinh của trường, chúng tôi phải trải qua một kì thi với các môn Toán, Ngữ Văn, Tiếng Anh. Sau đó, chúng tôi được chia lớp dựa trên số điểm mà mình đã đạt được. Dạy chúng tôi là những người thầy, người cô có chuyên môn cao. Hầu hết các thầy cô giáo trong trường đều có bằng cao học. Có những thầy cô giáo đã được phong tặng danh hiệu nhà giáo ưu tú. Chúng tôi luôn cảm thấy vinh dự và tự hào vì được là học trò của những người thầy, người cô như vậy. Họ luôn yêu quý và dạy dỗ chúng tôi như thể đang dạy cho con của mình. Bao nhiêu năm qua trường tôi vẫn luôn dẫn đầu về thành tích học sinh giỏi.

Bên cạnh phong trào thi đua dạy tốt học tốt, trường tôi còn thường xuyên tổ chức những phong trào hoạt động tình nguyện quyên góp cho các bạn học sinh vùng gặp khó khăn. Tôi lúc nào cũng hào hứng với các phong trào như vậy. Trường của tôi đã được Tỉnh tặng bằng khen cho những hoạt động ngoại khóa này. Bên cạnh đó, đội bóng đá của trường tôi cũng đang là đương kim vô địch giải bóng đá thiếu niên nhi đồng toàn thành phố.

Tôi đã gắn bó với ngôi trường của mình năm nay là năm thứ 4 rồi. Biết là nay mai sẽ phải xa rời mái trường này để bước lên bậc học cao hơn. Nhưng với tôi nơi này sẽ là nơi lưu giữ nhiều kỉ niệm đẹp nhất của tuổi học trò. Sẽ nhớ mãi không quên ngôi trường mang tên người anh hùng Lý Tự Trọng.

Vậy là quãng đời, học sinh của Tôi dần trôi qua, gần 3 năm học tập dưới mái trường THPT Nguyễn Huệ với biết bao kỉ niệm, vui có, buồn có, nhưng đọng lại trong trái tim tôi vẫn là những cảm xúc ấm áp của những năm tháng cùng sống, cùng học tập và trưởng thành dưới mái trường thân yêu này. Khoảng thời gian ấy tuy không dài so với 1 đời người, nhưng cũng đủ để in dấu vào lòng người những bài học của cuộc sống, sâu sắc và đáng quý .

Cổng trường mở ra và khép lại, đón và đưa lớp lớp thế hệ học sinh nhập học rồi ra trường, mang theo những thành quả của ước mơ mà 3 năm về trước họ đã ấp ủ cho vào hành trang để họ lớn lên trên mái trường THPT. Và tôi – mỗi học sinh lớp 12A2 cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Sắp phải rời xa mái trường mà tôi đã gắn bó để nhường chỗ cho những thế hệ mới với những con người mới. Trong tôi lắng đọng những suy nghĩ, suy tư, của một thanh niên trẻ, một học sinh sắp rời ghế nhà trường để bước vào trường ĐH hay những thử thách mới đầy cam go nhưng cũng không kém phần thú vị của cuộc đời. trong cái se lạnh của thời tiết đầu mùa, những kỉ niệm dưới mái trường THPT sống lại trong tôi như muốn, nhắc nhở tôi về một mái trường thân yêu, gần gũi, ấm áp đã giúp tôi nuôi lớn ước mơ của mình.

Ước mơ để trở thành học sinh cấp 3 xuất hiện hơn 4 năm về trước – từ ngày tôi còn là một học sinh cấp 2. Con đường dẫn tôi đến với ngôi trường này cũng nhiều khó khăn, nhưng bằng chính những nỗ lực của mình, cổng trường THPT Nguyễn Huệ đã rộng mở đón chào tôi lần đầu tiên bỡ ngỡ bước vào.

Nhớ xiết bao buổi đầu tiên ấy. Bước chân vào cổng trường THPT mà lòng tôi đan xen biết bao cảm xúc, vừa hân hoan trong niềm vui của một học sinh cấp 3 trước một chân trời mới của tri thức, vừa lo lắng, sợ sệt không biết học ở đây như thế nào. Nhưng rồi, tất cả cảm xúc ấy cũng trôi xa nhường chỗ cho những tiếng cười, khi mà tôi được trực tiếp gặp mặt và giao lưu với các học sinh xã khác. Buổi gặp mặt với những tiết mục văn nghệ đầy sôi nổi và quan trọng nhất là những thông tin giới thiệu của các anh chị khóa trước về mái trường và thầy cô ở nơi đây.

Hình ảnh thầy giáo Hiệu trưởng giới thiệu về môi trường và chào đón những thế hệ đầu tiên hiện rõ trong kí ức của tôi. Thầy nói về những thách thức về ô nhiễm môi trường mà chúng ta sẽ phải chịu đựng trong quá trình phát triển kinh tế, về tình trạng thực tế của môi trường xung quanh chúng ta và trách nhiệm của 1 người công dân, 1 học sinh. Ngoài ra, thầy giáo còn giới thiệu về cách học và tầm quan trọng của thời học sinh, cấp 3 này… Tất cả đã mang cho tôi một cái nhìn tổng quát về tầm quan trọng của cấp 3.

Học kỳ đầu tiên đối với tôi thật nặng nề, có lẽ, vì tôi chưa quen với những phương pháp dạy và học mới ở bậc cấp 3, và cũng bởi vì tôi phải tiếp xúc với những kiến thức hoàn toàn mới trong khi tôi chưa chuẩn bị được nền tảng. Kỳ đầu tiên với kết quả không như tôi mong đợi đã làm cho tôi lo lắng. Tôi tự đổ lỗi cho nhà trường vì chương trình và nội dung không cuốn hút mà quên mất rằng chính mình đã không thực sự cố gắng và chú tâm vào học tập cho thực chất.

Và rồi cuối cùng tôi cũng nhận ra khi bạn bè xung quanh tôi ai cũng học tốt và đạt thành tích cao. Khi đó tôi tự hứa với lòng mình phải gác lại những tình cảm cá nhân, không nên dành nhiều thời gian cho những người thân yêu ở nhà mà phải lấy họ làm động lực để cố gắng. Những năm tháng dưới mái trường THPT Nguyễn Huệ, tôi không chỉ được học những kiến thức hay, tính tự lập hơn và đã giúp tôi trưởng thành vững vàng hơn rất nhiều.

Trường THPT Nguyễn Huệ đã trở thành niềm tự hào của riêng tôi và tất cả các bạn. Ở đó có đội ngũ thầy cô thật tận tụy, những người bạn chân thành, mà có cả tình người ấm áp trong môi trường giáo dục chất lượng và đỉnh cao. Nhà trường cũng luôn theo sát hoàn cảnh của mỗi học sinh thông qua Đoàn trường và Hội học sinh, kịp thời động viên chia sẻ những khó khăn mà học sinh gặp phải trong quá trình học tập tại trường.

Bây giờ đã là một học sinh năm cuối, hơn hai năm gắn bó với mái trường tôi càng thêm tin tưởng và hi vọng nhiều hơn. Niềm tin đó giúp tôi vững vàng với lựa chọn của mình, tự tin trong học tập và rèn luyện, tự nhủ phải cố gắng nhiều hơn để xứng đáng với những gì trường Nguyễn Huệ đã dành cho tôi. Ngày hôm nay tôi có thể tự tin nói rằng vào THPT Nguyễn Huệ là lộ trình đúng bởi nơi đây chính là cánh cửa mở ra cho tôi nhiều cơ hội, là chìa khóa cho những ai muốn thay đổi.

Cuối cùng sau bao nhiêu nỗ lực dìu dắt và truyền đạt kiến thức của các thầy cô và sự cố gắng của bản thân tôi, tôi cũng đã thực sự được trưởng thành cả về kiến thức lẫn kỹ năng. Tôi xin được gửi tới Thầy Cô của mái trường mến yêu của mình lời hứa rằng dù ở nơi đâu, làm bất cứ việc gi, tôi cũng sẽ luôn cố gắng để xứng đáng với thương hiệu học sinh THPT Nguyễn Huệ.

Nhân ngày 20/11 em xin chúc các thầy cô giáo cán bộ, công nhân viên nhà trường sức khỏe và công tác tốt để xây dựng trường THPT Nguyễn Huệ ngày càng phát triển.

Ngôi trường của tôi được đặt tên theo tên gọi của người anh hùng dân tộc, người con gái bất khuất Võ Thị Sáu. Trường tôi có khuôn viên không quá lớn nhưng có thể được nhìn thấy từ xa với mái ngói đỏ và hàng cây bàng xanh mát bao quanh. Trường có tổng cộng năm dãy nhà, trong đó ba dãy nhà chính được xây dựng thành nhiều tầng khác nhau để phục vụ học tập, giảng dạy nhiều khối lớp và các công việc chung của nhà trường. Dãy A nơi làm việc ban giám hiệu, các thầy cô bộ môn, dãy B khu học chính của học sinh, còn dãy C là nơi sinh hoạt chung và diễn ra các hoạt động trong trường. Các phòng học của trường đều được thiết kế đầy đủ phục vụ cho việc học tập, rộng rãi thoáng mát. Ngoài ra, trường còn có một số phòng khác như thư viện, phòng đa chức năng, phòng y tế, phòng thí nghiệm… Hai dãy nhà còn lại là dãy ký túc xá và căng tin để phục vụ cho các bạn học sinh bán trú. Ký túc xá được phân thành khu nam và khu nữ riêng biệt với căng tin ở giữa để thuận tiện cho các bạn khi ăn uống. Nhìn ra phía trước, chính giữa của trường đó chính là khoảng sân trường rộng rãi được đặt rất nhiều ghế đá. Đây là khu vực chính để chúng tôi vui đùa trong giờ giải lao với nhiều trò chơi như bóng đá, bóng chuyền, cầu lông giúp thư giãn, giải trí để bước vào tiết học mới.

Ngôi trường Võ Thị Sáu tuy không quá lớn, không có quá nhiều học sinh nhưng mỗi năm trường đều tham gia đầy đủ các hội thi về học tập cũng như thể thao và đạt được nhiều thành tích cao. Các thầy cô và học sinh của trường luôn cố gắng, nỗ lực hết sức mình để giúp cái tên “Trường trung học cơ sở Võ Thị Sáu” vươn cao, vươn xa hơn nữa, trở thành một trong những trường trọng điểm của tỉnh nhà.

Trường THPT B Phủ Lý, một ngôi trường đơn sơ tuổi đời còn rất trẻ, không nằm ở trung tâm thành phố ồn ào, náo nhiệt nên ngôi trường có một sự thanh bình hiếm có: không gian yên tĩnh, không khí trong lành. Nơi đây, em đã gắn bó trong suốt 3 năm học cấp 3.

Chắc hẳn trong chúng ta ai cũng có ngày đầu tiên đi học, với em, những ngày đầu tiên ấy không thể nào quên. Còn nhớ ngày đầu tiên bước chân vào ngôi trường cấp 3 này, cảm giác bỡ ngỡ, xa lạ với trường mới, thầy cô mới, bạn mới đã khiến em rụt rè, lo sợ, nhưng các thầy cô ở đây với lòng nhiệt huyết của “người lái đò tận tụy” đã xóa tan đi những cảm giác ban đầu đó. Quen dần với những ngày đến lớp, thầy cô, bạn bè, quen với một mái trường với hàng cây xanh rợp bóng và con đường sớm tối đi về đã trở thành những kỷ niệm khó quên. Mái trường là biểu hiện sức sống, sự vươn lên của xã hội. Dường như mỗi người đều có một mối liên hệ nào đó với một mái trường. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn…”. Đúng như vậy, thời gian chính là thứ keo gắn bó kì diệu nhất, mái trường, thầy cô, bạn bè giờ đây đã trở thành gia đình thứ hai của em cũng như các bạn học sinh ở đây. Giờ sắp phải rời xa nơi này, bất cứ học sinh lớp 12 nào cũng có chút không nỡ…

Nhưng dòng đời phải luôn luôn chuyển động, con người ai ai cũng phải lớn lên, kết thúc đời học sinh để bước sang một trang mới của cuộc đời, để sống có ích một cách trọn vẹn. Tốt nghiệp cấp 3, mỗi người chọn cho mình một ngã rẽ nhưng em tin rằng không ai có thể quên kỉ niệm của những năm tháng học trò. Nếu năm học lớp 10, chúng ta có thể run sợ khi đứng trước giáo viên nhưng đến năm học lớp 12 này, thầy cô vừa là cha mẹ, vừa như những người bạn của chúng ta, thân thiết, gần gũi, đầy tình cảm. Đứng trước ngã rẽ của cuộc đời ta mới thấy lời khuyên của các thầy cô có ý nghĩa biết bao.

Sau mỗi tiết học, nhìn những giọt mồ hôi lăn trên trán và ướt đẫm áo thầy cô, lòng tôi bất chợt xót xa. Nhưng các bạn khác có ai biết đâu, có ai từng ngắm nhìn kĩ bất cứ một thầy cô nào, nhìn bằng cả tấm lòng thì sẽ thấy thầy cô như mỉm cười sau một tiết truyền thụ kiến thức khiến học sinh hiểu bài và ngược lại. Có thể chúng ta cho rằng đó là bổn phận, trách nhiệm của giáo viên. Chúng ta vào học thì đã đóng học phí cho nhà trường thì coi như đó là sự trao đổi công bằng nhưng đó có thật sự là công bằng không khi thầy cô tốn bao công sức, tâm huyết, yêu thương chúng ta và xem như là một phần của cuộc sống, niềm vui.

Khi chúng ta rời khỏi con đường học vấn, bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước, tuổi xuân đang phơi phới vẫy gọi thì lúc đó thầy cô đã về tuổi xế chiều. Suốt cả cuộc đời dạy học thầy cô nhân được gì? Niềm vui? Có đấy nhưng nỗi buồn thì lại rất nhiều. Những cơn giận được biểu thị qua thái độ, hành động khi thầy cô la rầy hoặc bị điểm kém. Những điều đó tuy rất đơn giản và đến với chúng ta chỉ trong phút chốc nhưng lại là một vết thương trong lòng thầy cô.

Tình cảm thầy trò rất thiêng liêng, cao cả. Và công lao thầy cô được ví như người lái đò thầm lặng chở học trò qua sông. Dù cho con sông đó phẳng lặng hay phong ba bão táp thì thầy cô vẫn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Từng chuyến đò qua là biết bao thế hệ trưởng thành nhưng khi con thuyền đó quay trở về để tiếp tục sự nghiệp thì chỉ còn một mình thầy cô “lẻ bóng”, học trò đã đi xây dựng sự nghiệp, cuộc sống mới, có ai còn nhớ đến người đã chở con thuyền tri thức và tình thương đó không? Nhưng thầy cô không hề nghĩ đến, đơn giản là vì thầy cô biết rằng đó là quy luật sống và là lương tâm của một nhà giáo chân chính. Thầy cô không mong sau này học trò sẽ nhớ đến mình, sẽ quay trở về và báo đáp công ơn dạy dỗ mà chỉ hi vọng những đứa trẻ đó sẽ thành công, mang danh dự về cho quê hương, đất nước thế là đã làm cho thầy cô vui lòng. Buồn lắm chứ, và cả thương nữa, không đành lòng xa những đứa con yêu dấu trong đại gia đình nhưng biết làm thế nào đây, thầy cô không thể nào mãi mãi giữ chúng ta bên mình để dạy dỗ. Chúng ta như những con chim non đang tập bay, khi đủ trình độ thì phải thả con chim đó ra để cho chúng bay lượn trên bầu trời tự do. Đây là nỗi buồn sâu lắng nhất và là nỗi niềm chung của tất cả những người theo nghiệp Nhà giáo.

Không chỉ dạy chữ, quan trọng hơn cả là thầy cô dạy chúng ta cách làm người. Uốn nắn, rèn luyện chúng ta trở thành con người nhân nghĩa, lễ phép… công ơn thầy cô không có gì so sánh được. Thế là chỉ còn chưa đầy 3 tháng nữa chúng ta bước sang một ngả khác, thời gian thoăn thoắt như thoi đưa, ước như thời gian quay được trở về thời điểm mới bước vào ngôi trường này để được từng thầy cô ân cần dạy dỗ.

Trong cuộc sống hối hả, nhộn nhịp của xã hội và đầy rẫy những cạm bẫy của cuộc đời chúng ta cảm thấy mệt mỏi, muốn quay về và muốn quay về bến đò xưa thì thầy cô là người luôn chờ đợi và dang tay ra để chào đón những đứa con thân yêu trở về. Chúng ta hãy dùng trí óc và con tim để ghi khắc từng kỉ niệm, từng chút một để chúng ta sẽ không lầm đường lạc lối trong cuộc đời tấp nập xô đẩy với vô vàn sóng gió. Chúng ta hãy tự tin và đứng vững trên đôi chân mình và hãy tin rằng thầy cô luôn bên cạnh, sẵn sàng nâng đỡ khi chúng ta vấp ngã.

Những ngày này, học sinh khối 12 đang tất bật bước vào giai đoạn ôn thi tốt nghiệp, ôn thi đại học, những lo lắng cho kì thi sắp tới dường như bao trùm tất cả nhưng một chút nào đó trong chúng ta là sự tiếc nuối, tiếc nuối quãng đời học sinh, tiếc nuối sự gắn bó được tạo ra như một thói quen. 3 năm học, dài đấy nhưng cũng thật nhanh, và dù sao nó cũng để lại trong ta biết bao kỉ niệm đẹp đẽ, trong sáng mà có lẽ cả cuộc đời này không bao giờ quên. Bỗng dưng trong e rộn ràng câu hát: “Em yêu trường em

Dù bạn là ai, dù bạn ở nơi đâu, hay dù bạn đã đi xa nhưng kỉ niệm về một thời học sinh dưới mái trường thân yêu – ngôi nhà thứ hai sẽ không phai nhạt trong kí ức của mỗi đứa học trò.

Thật may mắn cho tôi đã được gắn bó với ngôi trường mang tên Trường trung học phổ thông thị trấn Plei kần. Một thời cắp sách đến trường – đó là thời đẹp nhất, ngây thơ, trong sáng nhất với những kỉ niệm về thầy cô và bạn bè. Được thành lập từ năm 2000. Trải qua chín năm hoạt động dạy học và học tập cố gắng của hơn tám trăm học sinh và gần một trăm thầy cô giáo trường tôi đã xuất sắc là ngôi trường đứng đầu huyện. Nằm trên con đường hai bà trưng. Từ xa xa trên con đường đi học, có thể nhìn thấy trường tôi với tường vàng, mái ngói đỏ son. Trường tôi nằm ở một khuôn viên rộng, thoáng đãng. Từ ngoài bước vào là cánh cổng kéo dài chào đón chúng tôi mỗi ngày, mở ra cho chúng tôi một thế giới kì diệu. Ngày ngày bên cánh cổng thân yêu đó là hình dáng của bác bảo vệ hiền lành, cởi mở đã gắn bó với trường tôi từ khi thành lập đến nay.

Hoạt động thường ngày ở cổng trường trong giờ hành chính là của các bạn đội cờ đỏ. Theo vào, hiện ra trước mắt là ba dãy phòng, mỗi dãy hai lầu. Dãy A là nơi làm việc của ban giám hiệu nhà trường, của các thầy cô ở từng tổ chuyên môn, phòng truyền thống đội. Trường tôi có hai mươi chín lớp. Dãy B khu học chính của hai mươi tư lớp. Thêm bên dãy C là ba phòng học của năm lớp còn lại, được sắp xếp học chéo buổi sáng chiều. Kéo dài ở dãy B là phòng hội trường ở lầu trên-nơi diễn ra các buổi họp cũng như chuyên đề của nhà trường. Lầu dưới là phòng thực hành với đầy đủ các thiết bị thực hành của các tổ chuyên môn: Hoá-sinh, lý-công nghệ mới được đưa vào hoạt động. Kéo dài ở dãy C là khu vực đang được xây dựng chuẩn bị được đưa vào hoạt động để làm phòng học cho các lớp bồi dưỡng và phụ đạo. Mỗi phòng học của từng lớp được xây dựng rộng rãi với đầy đủ các thiết bị quạt và điện sáng. Thư viện, phòng đa chức năng và phòng thực hành tin học được sắp xếp cùng ở dãy C. Nơi để xe của các thầy cô giáo được xếp ở góc trái của ngôi trường, khu để xe của học sinh được sếp dài theo từng lớp ở sau dãy B phòng học.

Nơi tiếng cười của mỗi đứa học trò chúng tôi vang lên là ở sân trường, nơi chúng tôi được thả mình vào niềm vui của học trò. Có thể là khu vực trung tâm của ngôi trường nên được xây dựng khá rộng láng xi măng. Cột cờ của trường tôi được đặt ở chính giữa trước dãy A-nơi mà mỗi sáng thứ hai chào cờ thầy trò chúng tôi cùng đánh giá nhận xét kết quả hoạt động trong tuần cũng như triển khai kế hoạch tuần tới. Khuôn viên trường trở nên trong lành hơn trong những ngày nắng hè, tươi mát hơn trong những ngày trời thu là nhờ cây xanh. Cây tùng cứng cáp, dẻo dai qua ngày tháng. Cây phượng như là minh chứng cho chúng tôi về những kỉ niệm trong sáng, thân thương của bao bạn bè. Và nhiều loại cây khác nhau được trồng trong khu vực của sân trường nữa. Sau dãy B là nơi mỗi buổi chiều học tập xong, các bạn thi nhau thể hiện mình ở các cuộc chơi thể thao như bóng đá, bóng chuyền và cả cầu lông. Tiếng reo hò cỗ vũ làm tan cái mệt mỏi của bao học trò sau một ngày học căng thẳng. Với quy mô nhà trường khang trang và rộng lớn, thầy cô giáo nhiệt tình với công việc, thân thiện với học sinh. Dìu dắt mỗi học sinh nên người với cả tâm huyết trường tôi đã đạt được rất nhiều thành tích được huyện và tỉnh công nhận. Trường trung học phổ thông thị trấn Plei kần là trường xuất sắc dẫn đầu huyện đang cố gắng, nỗ lực chuẩn bị cho việc nhận bằng đạt trường chuẩn quốc gia sau nhiều năm phấn đấu. Ai nấy đều rất phấn khởi và tự hào về chính ngôi trường mà mình đang lớn lên.

Trường tôi là thế đó: rất khiêm nhường, thân thiện, thầy cô và bạn bè hòa đồng với nhau và cùng nhau cố gắng phấn đấu không ngừng. Tôi yêu quý ngôi trường này biết bao. Tất cả những kỉ niệm dưới ngôi nhà thứ hai này sẽ mãi theo tôi trên suốt cuộc đời

Nếu chỉ dùng một tính từ để nói về ngôi trường bạn đang học thì bạn sẽ chọn tính từ nào? Với tôi, tôi sẽ chọn tính từ “thân thương” bởi ngôi trường tôi đang học không chỉ đơn thuần là một ngôi trường học tập mà ở nơi đó tôi có cảm giác thân quen, thân thuộc, được sẻ chia, quan tâm và hồn nhiên vô tư như chính ở ngôi nhà của mình, tôi đã và đang được lớn lên, trưởng thành và khám phá chính bản thân mình dưới mái trường này.

Ngôi trường của tôi là trường Trung học phổ thông Phú Cát nằm ở xã Phú Cát huyện Quốc Oai, Hà Nội, ngôi trường được thành lập năm 1976 tính đến nay ngôi trường đã có hơn 40 năm xây dựng và phát triển. Trường tôi có khuôn viên rất rộng với sân trường rộng gần 1000 mét vuông, các dãy nhà học đều là nhà hai tầng khang trang sạch đẹp, đầy đủ các phòng học bộ môn và các phòng học chuyên môn như: phòng thực hành, phòng thí nghiệm, phòng tin học, phòng âm nhạc, ngoài ra còn có phòng thư viện, phòng đoàn đội, phòng hội đồng và phòng của ban giám hiệu. Trường tôi rất đông học sinh nên khu để xe của giáo viên cũng như học sinh rất rộng nằm ở phía sau dãy nhà của khối 10, 11 nơi để xe luôn có 3 bác bảo vệ quản lý giám sát rất cẩn thận. Sân trường rộng chính là điều kiện lý tưởng cho những buổi tập trung, mít tinh của trường, dưới những tán cây cổ thụ cao lớn tỏa bóng rộng chúng tôi tha hồ vui chơi, học thể dục thể thao.

Mỗi gốc cây lại có những hàng ghế đá, vài khóm hoa được trồng trong gốc đa số là hoa mười giờ, có thể vừa ngồi nghỉ trò chuyện lại vừa ngắm hoa. Với mục tiêu xây dựng trường học xanh – sạch – đẹp trường tôi không chỉ trồng nhiều cây xanh, hoa mà còn đặt nhiều thùng rác khắp sân trường và cân cầu thang, sẽ không có mảnh rác nào được vứt lung tung trong lớp học cũng như trong khuôn viên trường. Trường của tôi không chỉ đẹp về hình thức bên ngoài mà còn “đẹp” về chất lượng dạy và học, minh chứng cho điều đó là danh hiệu Trường chuẩn Quốc gia được công nhận. Với đội ngũ giáo viên hùng hậu, tài giỏi và nhiệt huyết với nghề, đa số các thầy cô đều tốt nghiệp các trường đào tạo sư phạm hàng đầu cả nước, nhiều thầy cô là giáo viên giỏi cấp huyện, cấp thành phố. Các thầy cô luôn yêu thương học sinh như chính người con, người em của mình, tận tình dạy dỗ, chỉ bảo và khuyên răn, không chỉ dạy cái chữ mà còn dạy cho cách làm người. Học sinh của trường Phú Cát luôn tự hào là thế hệ măng non chủ nhân tương lai của đất nước từ đó không ngừng phấn đấu học tập rèn luyện, hăng hái thi đua dạy tốt học tốt, luôn giành được thành tích cao trong các cuộc thi học sinh giỏi cấp huyện và cấp cụm, là một học sinh của trường tôi luôn tự hào về điều đó, tự hào khi được là học sinh của trường Phú Cát.

Có một điều tôi phải thừa nhận đó là tôi không thích học trên sách vở, không thích phải chép bài hay thi cử nhưng tôi lại yêu đi học, thích được mày mò thực hành thí nghiệm, muốn đến trường gặp bạn bè và thầy cô, muốn tham gia các hoạt động của trường, lớp có lẽ là vì tôi yêu mái trường này, yêu tất cả mọi thứ ở đây.

“Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”- đối với em, ngôi trường chính là nơi lưu giữ những kí ức tốt đẹp của tuổi học sinh. Bởi thế mà ngôi trường luôn là một điều có ý nghĩa đặc biệt, em yêu trường em lắm. Trường của em mang tên trường trung học phổ thông Bùi Thị Xuân.

Ngôi trường trung học phổ thông Bùi Thị Xuân được thành lập vào năm 1996 theo quyết định của ủy ban tỉnh nhà. Lúc mới thành lập, trường chỉ có 20 lớp với số lượng học sinh khá ít là 600, quá quá trình phát triển và nâng cao về chất lượng, trường càng thu hút nhiều học sinh trên địa bàn thành phố với hơn 1200 học sinh chia đều cho 40 lớp học.

Trường trung học phổ thông Bùi Thị Xuân trước đây nằm trên đường Mai Thúc Loan, sau này được chuyển về địa điểm 37, Lê Huân, phường Thuận Thành, thành phố Thừa Thiên Huế. Đây là điểm nằm ở bờ bắc của thành phố, nơi có những hàng cây rợp mắt, cách đại nội kinh thành Huế khoảng 2km đi về phía Tây Nam. Quanh khu vực của trường đều được thắt chặt an ninh, người dân nơi đây cũng đều quan tâm đến việc học tập của con em và có nhiều đóng góp, hỗ trợ vào sự phát triển của nhà trường. Xung quanh địa điểm trường cũng có nhiều phổ thông giáo dục khác đang hoạt động như trường tiểu học Bùi Thị Xuân, trường mầm non Hoa Hồng,…..Tổng diện tích của trường hiện nay khoảng hơn 1000 mét vuông, bao gồm hệ thống phòng học, khu sân chơi bãi tập, thư viện trường, phòng thí nghiệm, bãi giữ xe và khu vực vệ sinh.

Trường em được thiết kế thành ba dãy nhà chính hình chữ U, mỗi dãy có hai tầng với hơn 30 phòng học, 2 phòng công nghệ thông tin, 2 phòng thí nghiệm, khu hiệu bộ và 2 phòng tin học. Hệ thống phòng học đều được trang bị đầy đủ tivi, bảng viết, bàn giáo viên và bàn ghế phù hợp với vóc dáng học sinh chúng em. Phòng công nghệ thông tin được trang bị máy chiếu hiện đại phục vụ cho các giờ thao giảng của thầy cô cũng như trong các tiết học khi cần thiết. Phòng thí nghiệm là nơi hoạt động trong các giờ thực hành hoá học, vật lý, …đây là nơi em cảm thấy thú vị nhất mỗi khi bước tới vì được trải nghiệm nhiều điều mới mẻ ở đây. Hai phòng tin học với hơn 60 máy tính phục vụ thực hành được sắp xếp đầy hợp lí, đủ để mỗi học sinh được sử dụng một máy, hệ thống máy tính đều được kết nối internet phục vụ học tập, tìm kiếm thông tin.

Khu vực sân chơi khá rộng rãi và thoáng mát, nhiều cây xanh bóng mát và hoa, cây cảnh. Những hàng ghế đá đặt dưới gốc cây là nơi chúng em ra chơi tụ tập trong những giờ giải lao. Phía sau sân chơi là nơi học thể dục, được bố trí sẵn các bãi cát, xà đơn, sân bóng chuyền, cầu lông để chúng em học tập. Khu vực hiệu bộ có phòng hiệu trưởng, phòng họp tổ chuyên môn, các văn phòng của chi bộ, đội, đoàn trong trường. Thư viện trường có hàng ngàn đầu sách với đầy đủ mọi lĩnh vực như vật lý, toán học, ngữ văn, du lịch, sức khỏe, tự nhiên xã hội và con người.

Khu vực vệ sinh được bố trí riêng cho nam nữ, sạch sẽ, được dọn dẹp thường xuyên chu đáo. Bãi giữ xe gọn gàng, an toàn và khá đảm bảo vệ sinh.

Trường em hiện nay có gần 100 giáo viên, cán bộ nhân viên trong nhà trường. Trong đó hơn 70 giáo viên giảng dạy các bộ môn Văn, Toán, Lý, Anh,…..1 thầy hiệu trưởng, 2 cô phó hiệu trưởng, tất cả các giáo viên đều đạt trình độ chuẩn hoặc trên chuẩn.

Hoạt động của nhà trường luôn diễn ra sôi nổi, các kỷ cương, nề nếp được siết chặt. Những tiêu cực trong học tập, thi cử luôn được hạn chế đến mức tối đa. Chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, trường đã đạt nhiều thành tích rất nổi bật. Năm nào trường cũng đạt danh hiệu tập thể lao động xuất sắc, các giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh đạt giải cao. Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh được tặng bằng khen, giấy khen trong công tác. Đặc biệt, chất lượng học tập của học sinh ngày càng được cải thiện. Có 2 học sinh đạt điểm cao trong kỳ thi học sinh giỏi văn quốc gia, 1 em đạt giải nhất cuộc thi toán qua mạng, …và nhiều giải thưởng thể dục thể thao khác. Số lượng học sinh đạt thành tích khá lớn chiếm tỉ lệ khá cao, số học sinh phải thi lại hoặc ở lại lớp là rất ít. Có được nhiều thành tích tốt như vậy là nhờ sự nỗ lực của nhà trường và toàn xã hội. Em luôn tự hào khi được học trong ngôi trường có bề dày lịch sử với nhiều thành tích tốt như vậy.

Ngôi trường thân yêu luôn mãi là niềm tin, là nơi chắp cánh bao ước mơ, hy vọng trong em. Mai này, nếu có xa nơi đây, chắc em sẽ nhớ nhiều lắm, nhưng đó là chuyện của tương lai, giờ đây, em chỉ có thể biết cố gắng từng ngày để góp sức nhỏ bé của mình vào sự phát triển nhà trường.

Ngôi trường” hai tiếng gần gũi giản dị, thiêng liêng, chứa đựng bao kỉ niệm gắn bó về một thời áo trắng, hồn nhiên thơ ngây. Ngôi trường như là ngôi nhà thứ hai của em.

Thật tự hào khi ngôi trường em mang tên một anh hùng dân tộc lịch sử. Trường THPT Yên Định 1 được thành lập năm 1908. Sau hòa bình lập lại, trường được tách riêng vào năm 1956. Từ năm đó đến nay, có những thời kỳ gián đoạn do chiến tranh phá hoại, do nhiệm vụ chính trị, xã hội của đất nước, trường ổn định từ năm 1964 đến nay.

Ngôi trường nằm trên con đường quốc lộ với nhiều phương tiện xe cộ đi lại. Hai bên cổng trường là cây cối um tùm, cành lá xum xuê nên những bạn học sinh khi đến trường có thể nghỉ ngơi, nghỉ giải lao dưới bóng mát mà không sợ nắng. Cổng trường được sơn màu xanh, với bảng hiệu ghi tên trường, luôn mở rộng chào đón các bạn học sinh, đưa các bạn trở về với thế giới của những tri thức. Hai bên cánh cổng còn được lát gạch đỏ trông rất sang trọng. Bước vào sân trường được đổ bê tông phẳng lì, cây cối to, cao che bóng mát cho cả một khoảng trời trong sân trường. Vào mỗi giờ ra chơi, các bạn thường ra gốc cây tham gia những trò chơi, ngồi nghỉ giải lao, hóng mát sau những giờ học căng thẳng. Trên cành cây những chú chim ca hót líu lo tạo nên những bản nhạc không lời nghe thật vui tai. Ngôi trường với những dãy nhà cao to, khang trang, cao đẹp được sơn màu vàng. Mỗi khi có ánh nắng chiếu vào, ngôi trường càng trở nên lung linh, kì diệu hơn. Trường có rất cả 30 phòng học với những phòng học bộ môn như Vật lý, Hóa học,… với những máy móc, đồ thí nghiệm để học sinh được học tập khoa học. Các lớp học đều được lát nền đá hoa, mùa hè đi vào mát rượi. Mỗi phòng học rộng khoảng 40 mét vuông, được nhà trường trang bị đầy đủ những thiết bị cần thiết phục vụ cho việc dạy và học. Trong mỗi lớp học các bạn học sinh còn khéo léo trồng những cây xanh đem đến không khí trong lành, thoải mái, dễ chịu. Bên cạnh đó, nhà trường còn xây dựng nhà đa năng để học sinh tham gia những hoạt động thể dục thể thao, văn nghệ.

Advertisement

Được học tập dưới mái trường, chúng em luôn cảm nhận được sự giúp đỡ tận tình của thầy cô bạn bè. Đội ngũ giáo viên với chuyên môn cao, có kinh nghiệm cao trong nghề. Đặc biệt các giáo viên luôn tâm huyết với nghề, luôn yêu thương học sinh. Truyền thống ấy còn được viết lên bằng những cái tên ưu tú, những nhà giáo, những thế hệ học trò. Nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, giám đốc sở giáo dục đào tạo, vụ trưởng, phó giáo sư tiến sĩ…Học sinh có truyền thống chăm ngoan, học giỏi, luôn không ngừng tu dưỡng đạo đức. Ở đây ta bắt gặp những tình thầy trò thật đẹp. Chúng em luôn tôn trọng những thầy cô giáo, những người đã tiếp thêm cho chúng em sức mạnh và niềm tin, như những người lái đò chèo lái cho bao thế hệ học sinh sang sông một cách an toàn. Mai này bài giảng của thầy cô giúp chúng em trở thành những người có ích cho gia đình, xã hội. Ngoài ra, nhà trường còn tổ chức cho học sinh nhiều buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp như tiếng anh, hội chợ,… giúp học sinh phát triển năng lực toàn diện trở nên năng động hơn. Những hoạt động ngoại giờ của nhà trường giúp học sinh có thêm những phút giây thoải mái cũng như những kinh nghiệm thực tế quý báu. Trường có bề dày lịch sử cao về truyền thống học tập, với tỉ lệ đỗ vào các trường cấp ba đứng đầu Tỉnh, cùng với học sinh giỏi chiếm tỉ lệ cao.

Ngôi trường gắn bó biết bao nhiêu kỉ niệm, ngôi trường gắn bó biết bao kỉ niệm về tuổi học trò về thời áo trắng, chắp cánh cho biết bao thế hệ học sinh bay cao, bay xa. Dù có đi đâu xa thì ngôi trường vẫn luôn in đậm trong tâm trí bao thế hệ học sinh: “ Thời gian trôi qua nhanh chỉ còn lại những kỉ niệm”.

Ngôi trường của tôi với tên gọi của người anh hùng dân tộc Võ Thị Sáu. Trường thành lập năm 1998 đến nay đã có hàng chục năm phát triển, trường nằm khang trang tại một khu đất rộng, xung quanh là những bồn hoa xinh đẹp. Có rất nhiều những kỷ niệm gắn bó với ngôi trường mà tôi cắp sách đi học mỗi ngày.

Nhìn từ trường ra phía trước đó chính là khoảng trống rộng rãi, khu vực trung tâm nên có nhiều bóng mát, ghế đá được đặt rất nhiều. Đây là khu vực chính để chúng tôi vui đùa trong giờ giải lao với nhiều trò chơi như bóng đá, bóng chuyền, cầu lông giúp thư giãn, giải trí để bước vào tiết học mới. Nhắc đến không gian của trường phải nói đến hàng cây bóng mát mà trường đã trong nhiều năm trước, nổi bật nhất là cây phượng, mỗi mùa hè nở rộ màu sắc rất đẹp, đây là thời gian mà chúng tôi phải tạm chia tay nhau trong lưu luyến.

Ngôi trường Võ Thị Sáu không lớn, không nhiều học sinh nhưng mỗi năm đều tham gia đầy đủ các hội thi về học tập cũng như thể thao đạt nhiều thành tích cao. Các thầy cô và học sinh đang nỗ lực hết sức để giúp trường Võ Thị Sáu nhận bằng đạt trường chuẩn quốc gia trong thời gian không xa.

Trường của tôi là như vậy đó, dù chỉ là một ngôi trường bình thường như hàng ngàn ngôi trường trong đất nước này nhưng với tôi nó có vị trí đặc biệt quan trọng và mỗi khi nhớ về đều là những kỷ niệm mãi không quên.

Dù đi đâu về đâu tôi vẫn nhớ về nhiều kỉ niệm học sinh dưới mái trường xưa, những kỉ niệm thân thương buồn vui lẫn lộn và không thể xóa nhòa trong kí ức của mỗi học trò. Ngôi trường trung học phổ thông Quang Trung một thời tôi đã gắn bó.

Ngôi trường thành lập từ năm 1990, với gần 30 năm dạy học, trường đã đào tạo hàng ngàn học sinh và nằm trong số các ngôi trường xuất sắc ở huyện. Trường nằm trên con đường lớn của xã, nhìn từ xa đã thấy ngôi trường nổi bật với tường vàng, mái ngói đỏ. Trường nằm ở một khuôn viên rộng, có khuôn viên, chỗ để xe và sinh hoạt ngoài trời. Sau cánh cổng trường ấy có biết bao nhiêu điều thú vị.

Sau cánh cổng trường đó là bác bảo vệ hiền lành, trách nhiệm đã làm việc ở trường hơn 10 năm. Mặc dù đã lớn tuổi nhưng bác vẫn cần cù và trách nhiệm. Bước vào trường hiện ra trước mắt gồm có ba dãy phòng, mỗi dãy có hai lầu. Dãy A thuộc về ban giám hiệu, thầy cô thuộc tổ chuyên môn, phòng truyền thống đội. Dãy B khu học của học sinh. Dãy C dành cho sinh hoạt hoặc tổ chức ngoại khóa. Kế bên dãy B là nơi diễn ra các buổi họp, gần bên là phòng thực hành của các môn như Hóa – Sinh. Từng phòng được thiết kế với bàn học, quạt và điện chiếu sáng. Trang thiết bị của trường đầy đủ.

Trong trường không thể thiếu thư viện, phòng thực hành tin học. Hai phòng này sát bên nhau phục vụ việc học tập, nghiên cứu của học sinh các khối lớp. Nơi để xe của thầy cô nằm ở góc trái của ngôi trường, khu để xe học sinh thì sau dãy B phòng học. Tất cả đều sắp xếp hợp lý, khoa học nhằm đảm bảo thời gian di chuyển ngắn nhất cho giáo viên và học sinh.

Phía trước trường có khoảng đất rộng đó chính là khuôn viên và dành cho các buổi chào cờ đầu tuần. Khuôn viên gồm có cột cờ và nhiều các loại hoa trang trí. Trong trường cũng có nhiều cây xanh lâu năm như cây bàng, cây phượng…tạo bóng mát và nơi vui đùa, nghỉ ngơi của học sinh trong giờ giải lao.

Phía sau trường còn có một khoảng đất rộng, đó là nơi tập luyện thể dục thể thao rèn luyện sức khỏe với các môn bóng đá, bóng chuyền, cầu lông. Nhiều cuộc thi về thể thao được tổ chức nhằm rèn luyện sức khỏe cho giáo viên và học sinh trong trường. Trường chúng tôi từng vinh dự đạt nhiều giải cao trong bóng đá ở huyện và tỉnh.

Trường trung học phổ thông Quang Trung sau thời gian dài phấn đấu vừa giành được danh hiệu trường chuẩn quốc gia. Học sinh và giáo viên trong trường ai cũng đều tự hào và phấn khích.

Ai cũng phải lớn lên và rời xa trường cũ nhưng những kỷ niệm gắn bó với ngôi trường chắc chắn sẽ không thể phai nhòa. Thầy cô, bạn bè của trường Quang Trung đã là một phần trong tuổi thơ tôi.

………….

Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chiếc Khăn Quàng Đỏ 2 Dàn Ý &Amp; 7 Bài Văn Hay Lớp 8

1. Mở bài

Giới thiệu về chiếc khăn quàng đỏ.

2. Thân bài

a. Đặc điểm

Kích thước của chiếc khăn quàng: độ dài, rộng, hình dáng như thế nào?

Màu sắc của chiếc khăn, chất liệu vải của khăn quàng đỏ

b. Đối tượng sử dụng và cách sử dụng khăn quàng đỏ

– Đối tượng sử dụng: mọi học sinh từ lớp 1 đến lớp 9

– Cách sử dụng khăn quàng đỏ:

Gấp khăn: gấp cạnh dài nhất của chiếc khăn về phía góc tam giác lớn nhất sao cho góc khăn còn lại bằng khoảng nửa bàn tay

Quàng khăn: dựng đứng cổ áo lên, luồn khăn ra sau cổ áo rồi đưa hai đầu khăn về phía trước, thắt hai dây khăn vào với nhau hai lần để tạo khuôn vuông vắn, dễ tháo khi cởi ra

Chỉnh khăn: thắt khăn làm sao cho hai đầu khăn bằng nhau, đuôi khăn xòe ra, nút thắt khăn nằm chính giữa đường cúc áo, ngay dưới phần chữ V của cổ áo.

c. Ý nghĩa của chiếc khăn quàng đỏ

Biểu trưng cho thành viên của Đội Thiếu niên Tiền phong

Ba góc của khăn quàng đỏ đại diện cho sự liên kết của ba tổ chức Đảng Cộng sản – Đoàn Thanh niên Cộng sản – Đội Thiếu niên Tiền phong

3. Kết bài

Cảm nghĩ của em về chiếc khăn quàng đỏ.

I. Mở bài:

– Giới thiệu sơ lược về khăn quàng đỏ:

+ Biểu tượng và đồng phục của đội viên Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh cũng như một số tổ chức thiếu niên ở tại những nước cộng sản.

II. Thân bài:

– Đặc điểm:

Là một miếng vải màu đỏ hình tam giác cân, thường làm từ vải bông, lụa hoặc valise.

Khăn quàng đỏ được thắt lên cổ áo của đội viên theo một quy tắc nhất định.

– Công dụng:

Được xem như một loại trang phục, có ý nghĩa là biểu trưng cho một tập thể, một tổ chức nào đó, hoặc biểu thị cho một tư cách, địa vị xã hội.

3 góc của chiếc khăn quàng đỏ hình tam giác còn được nhiều người theo chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa xã hội cho là biểu trưng của sự liên kết giữa 3 thế hệ trong gia đình và 3 tổ chức nòng cốt của chủ nghĩa xã hội: thế hệ cha – thế hệ anh – thế hệ em tương ứng với 3 tổ chức Đảng Cộng Sản

– Cách sử dụng:

+ Thắt khăn

Gấp đôi chiều cạnh đáy khăn lại (như gấp quạt) để phần chiều cao khăn còn khoảng 15cm, bẻ cổ áo lên, đưa khăn vòng qua sau đầu từ trái sang phải, so hai đầu khăn bằng nhau, đặt dải khăn bên trái lên trên dải khăn bên phải.

Vòng đuôi khăn bên trái vào trong, đưa lên trên và kéo ra ngoài.

Lấy đuôi khăn bên trái vòng từ trái sang phải, và buộc tiếp thành nút (từ phải sang trái) với dải khăn bên phải.

+ Tháo khăn

Thắt nút khăn, sữa vuông vắn, mở cho hai dải khăn xòe ra, chỉnh đỉnh khăn nằm giữa sống lưng, bẻ cổ áo xuống.

Tay trái cầm nút khăn, tay phải cầm dải khăn phía trên nút , rút khăn ra

III. Kết bài:

Cảm nghĩ của em về chiếc khăn quàng đỏ

Quàng trên vai chiếc khăn quàng đỏ – em là thành viên của Đội Thiếu niên Tiền Phong Hồ Chí Minh. Niềm tự hào và những cảm xúc đầy thiêng liêng xúc động ấy vẫn còn đọng mãi trong em từ lần đầu tiên đeo chiếc khăn quàng đỏ.

Khăn quàng đỏ có nguồn gốc từ Liên Xô, chính nhờ có lý tưởng cách mạng Cộng Sản mà Bác Hồ đã đem chiếc khăn quàng đỏ này về với con em nước nhà. Đã 80 năm từ ngày Bác Hồ thành lập Hội Nhi đồng Cứu quốc nay là Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh (15/5/1941 – 15/5/2023). Chiếc khăn quàng đỏ vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa thiêng liêng, vẫn luôn phấp phới trên vai các em học sinh, cùng các em đến trường, tô thắm những tương lai.

Kích thước tiêu chuẩn của chiếc khăn quàng đỏ là hình tam giác, cạnh đáy dài 100cm, hai cạnh bên mỗi cạnh 60cm, chiều cao 30cm. Màu đỏ của khăn quàng phải là màu đỏ tươi, không quá nhạt cũng không quá thẫm, ý nghĩa của màu đỏ còn là màu máu của những thế hệ cha anh đã hy sinh cũng là màu của lá cờ Tổ quốc linh thiêng. Ngày nay khăn quàng đỏ được làm từ nhiều chất liệu vải khác nhau, có vải lụa satin, vải lưới, vải valise, những chất liệu làm bền màu hơn, giữ nếp lâu hơn.

Đeo khăn quàng đỏ với áo sơ mi trắng là đẹp và nổi bật nhất, gấp khăn từ cạnh đáy lên đỉnh khăn chừa lại một khoảng bằng nửa bàn tay. Rồi dựng cổ áo luồn khăn qua, đưa hai đầu khăn về phía trước thắt ngay ngắn rồi chỉnh sao cho nút thắt nằm chính giữa đường cúc áo và ngay dưới phần chữ V của cổ áo. Chiếc khăn quàng đỏ không nên hiểu là phụ kiện quàng thêm cho đẹp mà nó là trang phục ý nghĩa, cần phải có của đội viên. Bởi khăn quàng đỏ là biểu trưng cho Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, đã là đội viên bắt buộc phải đeo. Ba góc của chiếc khăn quàng cũng có ý nghĩa đại diện cho ba tổ chức Đảng Cộng sản – Đoàn Thanh niên Cộng sản – Đội Thiếu niên Tiền phong. Một chiếc khăn quàng nhỏ bé, đơn sắc nhưng ý nghĩa lại vô cùng sâu sắc. Thật tự hào khi vinh dự được là đội viên Thiếu niên Tiền phong, được quàng chiếc khăn trên vai và thật hạnh phúc khi được sống và học tập trong hòa bình.

Là người đội viên chúng ta phải trân trọng, nâng niu và gìn giữ chiếc khăn quàng đỏ, dù giá trị hiện vật của nó chỉ là vài nghìn đồng nhưng giá trị về lòng yêu nước, về tinh thần sức mạnh của thế hệ đội viên thiếu niên Tiền phong là vô giá, không có gì có thể thay thế được. Khi quàng lên vai chiếc khăn quàng đỏ ta phải nhớ về sự hy sinh của bao thế hệ cha anh đã cho ta cuộc sống như ngày hôm nay, đồng thời phải tự nhắc nhở bản thân học tập và phấn đấu hơn nữa để xây dựng và bảo vệ đất nước.

Chiếc khăn quàng đỏ ngày ngày theo nhịp bước chúng ta tới trường, cùng chúng ta học tập, vui chơi. Cùng chúng ta chia sẻ bao niềm vui nỗi buồn đã trở thành một hành trang thân thương không thể thiếu đối với mỗi đội viên chúng ta. Chiếc khăn quàng đỏ là một phần lá cờ của Tổ quốc. Màu đỏ của chiếc khăn là màu máu của bao anh hùng, liệt sĩ đã chiến đấu và hy sinh cho Tổ quốc Việt Nam được độc lập, tự do, được nở hoa kết trái. Màu đỏ ấy như nhắc nhở chúng ta về những trang sử hào hùng của dân tộc, nhắc ta về đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”. Màu đỏ ấy nhắc ta hãy tự hào về truyền thống của Đội TNTP Hồ Chí Minh. Bởi chúng ta có quyền tự hào về những anh Kim Đồng, anh Lê Văn Tám, anh Phạm Ngọc Đa, về Đội thiếu niên tình báo Bát Xát, về anh Nguyễn Bá Ngọc, chị Bùi Thu Nội… Hành động anh hùng của các thế hệ đội viên đã tô thắm thêm lá cờ đội, tô thắm chiếc khăn quàng, làm rạng rỡ truyền thống “Lớp cha trước, lớp con sau…” Thật xúc động và tự hào biết bao khi ta được đứng trong đội ngũ Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, được đeo trên vai chiếc khăn quàng đỏ thắm.

Tất cả những hành vi ấy đều không đúng với tư cách của một đội viên, không xứng đáng với truyền thống đội, với màu khăn quàng đỏ thiêng liêng.

Nét đẹp đội viên không chỉ được thể hiện ở kết quả học tập tốt, ở trang phục quần áo đẹp, ở những tài năng, năng khiếu… mà còn được thể hiện ở những hành động, việc làm hàng ngày, mà trước hết ở việc tuân thủ tốt nghi thức đội viên, đặc biệt là ý thức đeo chiếc khăn quàng hàng ngày, ở những nhận thức đúng đắn về ý nghĩa của chiếc khăn quàng, về truyền thống của đội.

Chúng ta hiểu rằng được mang chiếc khăn quàng đỏ trên vai là một niềm vinh dự tự hào của người đội viên. Trước khi đi học, chúng ta hãy đứng trước gương chỉnh đốn lại trang phục và xin hãy đeo chiếc khăn quàng đúng với nghi thức đội. Tôi tin rằng chúng ta sẽ thấy vui hơn trên đường tới trường, sẽ nhận được bao ánh mắt trìu mến, yêu thương của mọi người, sẽ thấy như vang lên trong tim lời hát:

Toàn liên đội chúng ta hãy dấy lên phong trào thi đua học tập, tu dưỡng “Tiến bước lên Đoàn”, để xứng đáng với truyền thống của Đội, với chiếc khăn quàng đỏ, xứng là một đội viên thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh.

Rộn ràng trong câu hát là hình ảnh màu khăn tươi thắm của chiếc khăn quàng đỏ theo bước những học sinh tới trường. Nó là chiếc khăn duy nhất gắn bó lâu dài với học sinh dưới mái trường thân yêu. Chiếc khăn quàng đỏ hình thù thật đặc biệt. Tuy chỉ là một miếng vải hình tam giác cân. Đỉnh góc của nó được gọi là “đuôi”, còn hai cạnh cắt nhọn dài trông rất hợp lý. Nhớ lại hồi học lớp ba, em được kết nạp vào đội và bắt đầu được quàng khăn đỏ trên vai, trong lúc dạy thắt khăn quàng đỏ em thấy rất phấn khởi, hạnh phúc và tự tin. Có vẻ đơn giản nhưng cũng thật khó hiểu quá. Sau rồi em lại thấy rất thành thạo và thấy thích. Chiếc khăn theo thời gian đã gắn bó với em cho tới ngày hôm nay. Khi quàng nó trên vai em thấy niềm hạnh phúc nảy nở vô bờ bến. Em thấy mình biết nhiều hơn, và rất tự hào khi hiểu ý nghĩa của chiếc khăn quàng đỏ đến chừng nào. Tuy rằng em chưa hiểu hết ý nghĩa sâu sắc, những điều cơ bản mà mỗi học sinh chúng em đều biết: Màu đỏ khăn quàng chính là hình tượng, tượng trưng máu đào của các chiến sĩ, những người con đã hy sinh để bảo vệ Tổ quốc Việt nam. Còn gì thiêng liêng hơn thế nữa, khi chúng em, những người học sinh dưới mái trường này được quàng nó trên vai để tỏ lòng biết ơn, tưởng nhớ như câu nói: “Ăn quả nhớ người trồng cây” sâu sắc với lớp cha anh đi trước đã đổ máu hy sinh anh dũng.

Chúng em còn tự hào bởi nó còn tượng trưng cho Đảng cho một phần lá cờ tổ quốc, đồng thời nó cũng là hình ảnh người học sinh tuổi thanh thiếu niên mà ai ai cũng từng trải qua.

Chiếc khăn quàng đỏ như một người bạn thân luôn luôn tiến bước cùng chúng ta, luôn học tập, vui chơi cùng chúng ta. Em nhớ mỗi khi gặp bài khó, nhìn thấy nó là em lại cố gắng không chịu khuất phục, khăn quàng đỏ làm em can đảm và tự tin hơn trong học tập. Nó luôn khích lệ trong từng bước đi của em. Nó giản dị bé nhỏ nhưng lại thể hiện một vai trò to lớn. Nó là món quà mà lớp cha anh đi trước để lại cho chúng ta. Nó cũng chính là nhiệm vụ mà đội Thiếu niên Tiền Phong Hồ Chí Minh giao cho mỗi đội viên chúng ta phải nâng niu, giữ gìn đó là trách nhiệm của chúng em. Em nguyện sẽ giữ gìn nó. Dù sau này em lên cấp 3. Trở thành một người đoàn viên thanh niên em sẽ phải rời xa nó để đeo trên ngực chiếc huy hiệu đoàn viên.

Song em sẽ vẫn nâng niu, vẫn cảm ơn và nhớ về chiếc khăn quàng đỏ xinh xắn, nó đã cho em niềm vinh dự. Cái khăn mà em cảm thấy mình lớn lên hiểu được ý nghĩa của lá cờ tổ quốc, hiểu được trách nhiệm của chính bản thân mình với mái trường, tổ quốc hình chữ S thân yêu.

Từ năm học lớp ba thì em cũng đã được kết nạp vào Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Và không phải nói gì thêm em cũng rất rất sung sướng và tự hào về điều đó. Và không chỉ thế thôi đâu, một trong những điều em yêu thích chính là được khoác trên vai chiếc khăn quàng đỏ. Chiếc khăn quàng chính là biểu tượng cho người thiếu niên.

Có thể nhận thấy được chiếc khăn quàng khá to, nó có hình tam giác cân đối dài và rộng. Chiếc khăn quàng đỏ này thông thường được làm bằng loại vải thun mềm khi cầm lên rất nhẹ và mịn màng. Khăn quàng có màu đỏ tươi như máu, mà cô giáo em nói khi chúng ta đeo chiếc khăn quàng này chúng ta phải học tập tốt để xứng đáng với thế hệ đi trước. Và khi mà vào Đội em đã hiểu rõ ý nghĩa của nó, đó cũng chính là màu cờ của Tổ quốc Việt Nam ta. Chiếc khăn quàng dường như cũng đã tượng trưng cho màu máu của những anh hùng dân tộc, các anh cũng đã hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Nó dường như cũng đã thật là khéo léo nhắc nhở chúng em phải luôn luôn ghi nhớ đến công lao to lớn ấy và để cho chính em cũng phải biết và như hiểu rõ trách nhiệm của người đội viên.

Quả thật cứ mỗi khi em quàng khăn đỏ, chiếc khăn nằm ngay ngắn và nổi bật dưới cổ áo màu trắng tinh nhìn thật đẹp mắt biết bao nhiêu. Có lẽ rằng, đối với em chính chiếc khăn quàng đỏ cũng chính là đồng phục của bất kì người Đội viên Thiếu niên nào cũng vậy, nên mình cần phải làm những việc tốt, học tốt.

Chiếc khăn quàng đỏ thắm trên vai như chính là người bạn thân thiết của em, em luôn đeo nó khi đến trường. Và em như thấy được rằng để mà được đeo khăn quàng đỏ, em thấy mình như lớn hẳn lên và là người phải có trách nhiệm hơn nữa. Em như thấy được chiếc khăn quàng như nhắc nhở em luôn phải chăm ngoan, học giỏi để xứng đáng với danh hiệu đó chính là Đội viên Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.

Tôi có một chiếc khăn quàng đỏ như các bạn vẫn có. Một hôm, là một ngày đáng nhớ nhất trong lễ kết nạp Đội tôi đã được chính thức đeo chiếc khăn quàng này trên vai đi học kể từ ngày đó trong tôi biết bao cảm xúc. Vào Đội chính là một nhiệm vụ thật thiêng liêng tuy nó sẽ không là gì nhưng sẽ là một dấu ấn rất quan trọng trong cuộc đời của tôi.

Tôi như thấy được rằng chiếc khăn quàng như là minh chứng cho sự thành công này của tôi. Chiếc khăn quàng của em có màu đỏ như máu của những người anh hùng đã hi sinh vì dân tộc. Chiếc khăn hình tam giác rất lớn và dài. Em cũng rất lúng túng khi thắt chiếc khăn quàng đỏ thắm trên vai nhưng nhận được lời chỉ dạy tận tình của cô giáo trong công tác Đoàn trường cũng như ở nhà em đã được mẹ dạy.

Chính vì thế bây giờ khi đi học ngoài việc đúng đồng phục học sinh em lại được khoác trên vai chiếc khăn quàng đỏ thắm rất tự hào kia. Khi được vào Đội thì em như thấy mình lớn lắm, niềm vui cứ mãi ở trong tâm trí em không bao giờ mất đi. Em thấy được mình cần phải học tập tốt hơn nữa để xứng đáng là một thành viên trong Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.

Có thể nhận thấy được chiếc khăn quàng khá to, nó có hình tam giác cân đối dài và rộng. Chiếc khăn quàng đỏ này thông thường được làm bằng loại vải thun mềm khi cầm lên rất nhẹ và mịn màng. Khăn quàng có màu đỏ tươi như máu, mà cô giáo em nói khi chúng ta đeo chiếc khăn quàng này chúng ta phải học tập tốt để xứng đáng với thế hệ đi trước. Và khi mà vào Đội em đã hiểu rõ ý nghĩa của nó, đó cũng chính là màu cờ của Tổ quốc Việt Nam ta.

Chiếc khăn quàng dường như cũng đã tượng trưng cho màu máu của những anh hùng dân tộc, các anh cũng đã hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Nó dường như cũng đã thật là khéo léo nhắc nhở chúng em phải luôn luôn ghi nhớ đến công lao to lớn ấy và để cho chính em cũng phải biết và như hiểu rõ trách nhiệm của người đội viên.

Advertisement

Quả thật cứ mỗi khi em quàng khăn đỏ, chiếc khăn nằm ngay ngắn và nổi bật dưới cổ áo màu trắng tinh nhìn thật đẹp mắt biết bao nhiêu. Có lẽ rằng, đối với em chính chiếc khăn quàng đỏ cũng chính là đồng phục của bất kì người Đội viên Thiếu niên nào cũng vậy, nên mình cần phải làm những việc tốt, học tốt.

Hàng ngày cứ đến lớp học là em đeo chiếc khăn quàng đỏ thắm trên vai trong niềm tự hào về dân tộc mình. Em yêu chiếc khăn quàng này lắm.

Đeo chiếc khăn quàng đỏ thắm trên vai tôi luôn tự hào và hãnh diện khi là một thiếu niên của nước Việt Nam. Tôi luôn trân trọng và nâng niu nó để nó mãi là một người bạn, tri kỷ của tôi.

Mùa xuân đã về với tuổi thơ rồi đó, mùa xuân về khiến mỗi chúng ta lại nhớ một thời thơ ấu tươi đẹp. Tôi cũng vậy nhớ lại khi tôi vinh dự được cô tổng phụ trách đeo lên vai chiếc khăn quàng đỏ thắm thật vui biết mấy.

Chiếc khăn là một hình tam giác to dài và rộng. Qua những bàn tay khéo léo, chiếc khăn đã được dệt nên bởi vải thun mềm. Nhưng có một điều tôi đã thắc mắc khi còn là một cô bé thơ ngây mới bước vào đội mà đến bây giờ tôi mới hiểu ra.

Tại sao chiếc khăn ấy không phải là những màu sắc mà tôi yêu như : vàng, hồng, cam… mà chiếc khăn quàng lại có màu đỏ thắm. Màu đỏ thắm tượng trưng cho màu máu của những anh chiến sĩ đã không tiếc máu xương đổ xuống vì nền độc lập, tự do của dân tộc.

Để mỗi thiếu nhi trên toàn quốc, những chủ nhân tương lai của đất nước luôn biết phấn đấu, học tập, tu dưỡng đạo đức để xứng đáng là một đội viên thiếu niên tiền phong. Luôn biết ơn những thế hệ cha ông.

Chiếc khăn quàng ấy như một người bạn mỗi khi tôi đeo lên, người bạn tri kỷ ấy lại nhắc nhở tôi phải chăm ngoan, học tập tốt để xứng đáng là một đội viên gương mẫu. Mỗi khi đeo chiếc khăn ấy lên, gương mặt của những cô bé, cậu bé đội viên như tươi tắn, rạng rỡ hơn.

Nhắc đến Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh là nhắc đến chiếc khăn quàng màu đỏ thắm. Khăn quàng đỏ là biểu tượng, là sức mạnh và là niềm tự hào lớn của thế hệ thiếu nhi Việt Nam.

Khăn quàng đỏ là biểu tượng và đồng phục của đội viên Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh cũng như một số tổ chức thiếu niên ở tại những nước cộng sản. Nó thường là một miếng vải màu đỏ hình tam giác cân, thường làm từ vải bông, lụa hoặc valise. Khăn quàng đỏ được thắt lên cổ áo của đội viên theo một quy tắc nhất định.

Khăn quàng đỏ là một khăn quàng màu đỏ. Thiếu niên đeo khăn quàng đỏ là biểu trưng cho việc mình đã gia nhập tổ chức Đội Thiếu niên Tiền phong.

Khăn quàng đỏ là một hình tam giác cân, chiều cao bằng một phần tư (1/4) cạnh đáy. Khăn quàng đội viên có kích thước tối thiểu: chiều cao: 0.25 m, cạnh đáy: 1m. Khăn quàng phụ trách có kích thước tối thiểu: chiều cao: 0.3 m, cạnh đáy: 1,2 m.

Ba đỉnh của khăn quàng đỏ là biểu trưng của sự liên kết giữa 3 thế hệ trong gia đình và 3 tổ chức nòng cốt của chủ nghĩa xã hội: thế hệ cha – thế hệ anh – thế hệ em tương ứng với 3 tổ chức Đảng Cộng Sản – Đoàn Thanh niên Cộng Sản – Đội thiếu niên tiền phong. Đây là điều mà trước đây các gia đình có 3 thế hệ đều theo lý tưởng của và phục vụ cho Đảng Cộng Sản rất tự hào.

Khăn quàng đỏ là một phần cờ Tổ quốc. Màu đỏ tượng trưng cho lý tưởng cách mạng, đeo khăn quàng đỏ, Đội viên Đội TNTP Hồ Chí Minh tự hào về Tổ quốc, về Đảng Cộng sản Việt Nam, về Bác Hồ vĩ đại, về nhân dân Việt Nam anh hùng và nguyện phấn đấu để trở thành Đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Đội viên đeo khăn quàng đỏ khi đến trường, sinh hoạt Đội và tham gia các hoạt động Đội.

Thiếu nhi đến độ 8 tuổi đều háo hức được đứng vào hàng ngũ của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, điều đó chứng tỏ sức ảnh hưởng của chiếc khăn quàng đỏ lớn mạnh như thế nào. Khăn quàng đỏ sẽ là điểm nhấn và là dấu son đáng nhớ trong quãng thời gian cắp sách tới trường của mỗi người học sinh.

80 năm ra đời và phát triển, Đội TNTP HCM đã bồi dưỡng, rèn luyện và đóng góp cho đất nước những thế hệ thanh thiếu niên đáng tự hào, đóng góp lớn cho công cuộc chiến đấu, bảo vệ, phát triển Tổ quốc Việt Nam văn minh, hòa bình và giàu đẹp.

Thuyết Minh Về Hồ Tây (Dàn Ý + 5 Mẫu) Những Bài Văn Hay Lớp 9

Hồ Tây là một hồ nước tự nhiên lớn nhất tại Hà Nội, và sau đây chúng tôi xin mời các bạn cùng tham khảo dàn ý và một số bài văn mẫu Thuyết minh về Hồ Tây.

I. Mở bài:

– Giới thiệu và dẫn dắt đến đề bài: Thuyết minh về Hồ Tây lớp 9.

II. Thân bài:

* Vị trí của Hồ Tây ở đâu?

– Hồ Tây thuộc quận Tây Hồ của thủ đô Hà Nội.

– Đây chính là hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất ở nội thành Hà Nội với diện tích là hơn 500 ha cùng với chu vi là 11,5km.

* Nguồn gốc của Hồ Tây là gì?

– Hồ Tây được hình thành từ sông Hồng, là một đoạn của dòng sông này ngưng đọng lại trong quá trình sông chuyển dòng chảy.

– Trong sách “Tây Hồ chí” đã ghi lại rằng Hồ Tây có từ thời Hùng Vương. Bao xung quanh là cây rừng với thực vật phong phú, thậm chí còn có cả động vật quý hiếm nữa.

– Hồ Tây từ xưa đến nay có rất nhiều tên gọi khác nhau. Theo thời gian và dựa vào các truyền thuyết mà thay đổi: từ Đầm Xác Cáo – tên gọi xưa nhất của Hồ Tây dựa trên truyền thuyết về hồ ly tinh chín đuôi cũng như sự ra đời của hồ đến Hồ Kim Ngưu, Lãng Bạc, Dâm Đàm. Tây Hồ… Tuy vậy, qua bao năm, người dân vẫn quen gọi là Hồ Tây hơn.

* Khung cảnh Hồ Tây như thế nào?

– Từ Hồ Tây đi ra xung quanh sẽ tới những ngôi làng cổ, những con phố với các quán cà phê hướng về phía mặt hồ được nhiều người lựa chọn dừng chân.

– Phía lối đi dạo gần hồ còn có lan can được xây dựng với những hoa văn thẩm mỹ. Đèn đường xếp lối thẳng hàng. Buổi tối ở bên hồ rất náo nhiệt: người người nhà nhà đi hóng gió, đi dạo…

– Mỗi buổi sớm, khi mặt trời xuất hiện, mặt hồ lấp lánh như dát vàng, gợn sóng nhỏ lăn tăn khiến lòng người yên bình đến lạ. Chiều về, ánh hoàng hôn đỏ rực, mặt hồ in bóng lòng đỏ trứng phía trên cao, những nhành liễu rì rào đung đưa trong gió… Thơ mộng biết bao.

– Với một khung cảnh đẹp và diện tích rộng lớn, nơi đây còn là địa điểm chụp ảnh cưới yêu thích của rất nhiều cặp đôi nữa.

* Ý nghĩa của Hồ Tây ra sao?

– Hồ Tây từ lâu đã là thắng cảnh tuyệt đẹp. Vào thời Lý – Trần, các vua đã cho xây dựng nhiều hành cung nghỉ mát xung quanh hồ, nay là khu vực các chùa Kim Liên, Trấn Quốc…

– Hồ Tây là một nét đẹp trong nội thành Hà Nội, là đề tài cho nhiều bức ảnh, bài thơ, bức tranh.

– Nơi đây cũng là chỗ đi bộ, tập thể dục buổi sáng hay là nơi hò hẹn của nhiều cặp đôi.

– Hồ Tây từ lâu đã xuất hiện trong ca dao, trong thơ của Hồ Xuân Hương cũng như nhiều thi sĩ nổi tiếng.

* Hiện trạng của Hồ Tây và hành động nên làm?

– Thực trạng: Vào năm 2023, một lượng lớn cá tại hồ đã chết với nguyên do là trong hồ không có oxy cho chúng hô hấp. Theo nghiên cứu và điều tra ra thì nguyên nhân đó là do hồ bị ô nhiễm từ lâu. Rất nhiều năm qua hồ chưa được nạo vét và hàng ngày vẫn có rất nhiều cống nước thải xả trực tiếp ra hồ mà chưa qua xử lý.

– Hành động: Mỗi chúng ta cần góp sức chung tay bảo vệ không gian xanh – sạch – đẹp của hồ. Một hành động nhỏ cùng góp lại sẽ tạo nên thành quả lớn. Ban quản lý Hồ Tây cũng đã có nhiều biện pháp để giữ gìn vẻ đẹp của hồ.

III. Kết bài:

– Nêu suy nghĩ, tình cảm của bản thân về khung cảnh và ý nghĩa của Hồ Tây.

Hồ Tây là hồ nước tự nhiên nằm ở phía Tây Bắc nội thành Hà Nội với diện tích khoảng 500ha, có đường vòng quanh hồ dài gần 20km. Ngành địa lý lịch sử đã chứng minh, Hồ Tây là hồ ngoại sinh, có dạng lòng chảo, là một đoạn của sông Hồng xưa trong quá trình ngưng đọng lại sau khi sông đổi dòng chảy. Hồ Tây trước đây còn có các tên gọi khác như Đầm Xác Cáo, Hồ Kim Ngưu, Lãng Bạc, Dâm Đàm, Đoài Hồ. Mỗi tên gọi đều gắn với sự tích về nguồn cội của hồ Tây huyền thoại.

Sách Tây Hồ chí ghi rằng, Hồ Tây có từ thời Hùng Vương, bấy giờ nơi đây là một bến nằm giáp sông Hồng thuộc động Lâm Ấp, nên được gọi là bến Lâm Ấp thuộc thôn Long Đỗ. Ở vào thời Hai Bà Trưng, bến này thông với sông Hồng, bao bọc quanh hồ là rừng cây gồm nhiều loại thực vật chính như tre ngà, bàng, lim, lau sậy, gỗ tầm… cùng một số loài thú quý hiếm sinh tồn.

Phía Tây hồ Tây ngày nay vẫn còn dấu vết nhiều làng cổ. Mỗi ngôi làng ở đây đều ít nhiều gắn với một huyền tích lịch sử. Làng Nghi Tàm, quê hương nhà thơ “Bà huyện Thanh Quan”. Làng Xuân Tảo với đền Sóc thờ Thánh Gióng. Làng Trích Sài có chùa Thiên Niên thờ bà tổ nghề dệt lĩnh. Làng Thụy Khuê có chùa Bà Ðanh. Làng Nhật Tân với vườn hoa đào nổi tiếng…Có một nơi mà nhiều du khách muốn tới thăm là chùa Trấn Quốc. Chùa Trấn Quốc nằm trên bán đảo nhỏ giữa mênh mang sóng nước ngay bên đường Thanh Niên, con đường đẹp ngăn cách giữa hồ Tây và hồ Trúc Bạch. Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, có từ thế kỷ VI thời Lý Nam Đế. Hoà Thượng Thích Thanh Nhã, trụ trì chùa Trấn Quốc cho biết: “Vào năm 541-548 khởi đầu được gọi là chùa Khai Quốc, chùa được xây dựng ngoài bãi sông Hồng, sau này vào đời Hậu Lê ( thế kỷ 17) thì chuyển vào đây. Trước đây nơi này được gọi là bãi cá vàng, mà vua chúa thời xưa du xuân,du thuỷ, sau đó các vị cao tăng về đây tu hành. Ngôi chùa tính đến nay có lịch sử 1440 năm. Cư dân sinh sống ở đây rất thưa thớt, họ sống chủ yếu bằng nghề săn bắt thú rừng, tôm, cua, cá và trồng tỉa cây cối. Bên cạnh đó thì bờ phía Đông có Nha Lâm Động (nay là phố Yên Ninh, Hòe Nhai), bờ phía Nam có Bình Sa Động (thời Lý đổi là Giáp Cơ Xá (nay thuộc quận Hoàn Kiếm).

Ở thủ đô Hà Nội, hồ Tây là khu vực có hệ thống di sản, di tích đậm đặc. Chỉ riêng khu vực quanh hồ Tây hiện còn có hơn 20 ngôi đình, đền, chùa được xếp hạng với nhiều di tích nổi tiếng. Cứ mỗi khi xuân về, những di tích ấy thu hút hàng vạn khách thập phương trong và ngoài nước đến vãn cảnh, tham quan lễ chùa. Với lợi thế vị trí độc đáo, hồ Tây gần như bao trọn không gian văn hóa lịch sử gắn liền với nhiều truyền thuyết, các công trình nghệ thuật, kiến trúc, gắn với lịch sử ngàn năm thủ đô Hà Nội. Đây cũng là lý do mà nhiều du khách tới đây tìm hiểu khám phá hồ Tây. Với nhiều du khách, điều thích thú nhất là được tham quan hồ Tây bằng xe điện chạy quanh hồ. Ông Nguyễn Quang Lộc, nhà ở Quận Hai Bà Trưng cho biết: “Trước đây tôi chỉ nghe nói hồ Tây rộng, chứ chưa đi hết. Nhưng nay đi xe điện quanh hồ tôi biết thêm nhiều điều, hiểu thêm các làng nghề, các di tích, đình, chùa xung quanh hồ Tây”.

Ở thủ đô Hà Nội, hồ Tây là khu vực có hệ thống di sản, di tích đậm đặc. Chỉ riêng khu vực quanh hồ Tây hiện còn có hơn 20 ngôi đình, đền, chùa được xếp hạng với nhiều di tích nổi tiếng. Cứ mỗi khi xuân về, những di tích ấy thu hút hàng vạn khách thập phương trong và ngoài nước đến vãn cảnh, tham quan lễ chùa. Với lợi thế vị trí độc đáo, hồ Tây gần như bao trọn không gian văn hóa lịch sử gắn liền với nhiều truyền thuyết, các công trình nghệ thuật, kiến trúc, gắn với lịch sử ngàn năm thủ đô Hà Nội. Đây cũng là lý do mà nhiều du khách tới đây tìm hiểu khám phá hồ Tây. Với nhiều du khách, điều thích thú nhất là được tham quan hồ Tây bằng xe điện chạy quanh hồ. Ông Nguyễn Quang Lộc, nhà ở Quận Hai Bà Trưng cho biết: “Trước đây tôi chỉ nghe nói hồ Tây rộng, chứ chưa đi hết. Nhưng nay đi xe điện quanh hồ tôi biết thêm nhiều điều, hiểu thêm các làng nghề, các di tích, đình, chùa xung quanh hồ Tây”.

Hồ Tây ngày nay còn là lá phổi xanh của thành phố. Hồ Tây không chỉ đẹp bởi mặt nước xanh mênh mông, mà còn là vẻ đẹp thơ mộng bởi sắc tím của hoa bằng lăng, vẻ rực rỡ của những cánh hoa phượng hồng mỗi độ hè về. Mặt nước hồ luôn phảng phất những làn gió mát, khiến tâm hồn con người thêm thư thái. Với không gian như thế, hồ Tây thực sự là nơi đến thư giãn của nhiều người Hà Nội.

Chỉ đọc vài câu thơ là ta đã thấy hồ Tây thật thơ mộng và hữu tình đúng không nào? Nếu đã là người con của Hà Nội thì chắc hẳn sẽ biết về hồ này.

Hồ Tây là một trong những danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội, đây cũng được coi là một sân khấu đặc biệt, kết hợp giữa mây trời và cảnh quan thành phố.

Hồ Tây, còn có tên hồ Mù Sương (Dâm Đàm), hồ Trâu Vàng (Kim Ngưu hồ), Đầm Xác Cáo,Tây Hồ, là hồ lớn nhất ở nội thành Hà Nội (với diện tích hơn 500 ha).

Con đường đi vòng quanh hồ dài tới 17km. Hồ nằm ở phía tây bắc Hà Nội. Ngành địa lý lịch sử đã chứng minh rằng Hồ Tây trước đây chính là một đoạn của sông Hồng. Trải qua quá trình ngưng đọng và đổi dòng của sông, hồ đã trở thành hồ nước tự nhiên lớn nhất trong khu vực nội thành Hà Nội.

Hồ có từ thời nhà Lý, Trần. Nơi đây được các vua xây dựng các cung điện để giải trí và nghỉ mát, có thể kể đến như: Điện Hàm Nguyên đời nhà Trần, Cung Từ Hoa đời nhà Lý, nay là khu chùa Trấn Quốc và Kim Liên.

Xung quanh Tây Hồ có nhiều di tích văn hóa lịch sử như: Làng Nghi Tàm, chùa Kim Liên với kiến trúc độc đáo và là quê hương của bà Huyện Thanh Quan. Làng Xuân La là nơi thờ bà tổ nghề dệt lĩnh Phạm Thị Ngọc Đô, còn phủ Hồ là nơi để thờ Liễu Hạnh Công chúa. Đường Thanh niên, trước gọi là đường Cổ Ngư, hình thành từ một con đê hẹp đắp ngăn một góc Hồ Tây.

Vào những ngày đẹp trời, rất đông người dân Hà Nội đi dạo quanh hồ hoặc chèo thuyền thưởng ngoạn cảnh đẹp. Ngoài ra còn các di tích văn hóa khác có thể kể đến như: Làng Nhật Tân, Làng Kẻ Bưởi,…

Ngoài ra, Hồ Tây cũng rất đặc biệt, dưới đáy hồ có nhiều nghĩa địa cổ. Nhưng tại sao, những ngôi mộ lại nằm ở giữa hồ? Chẳng lẽ, phong tục người dân ven hồ đem người chết ra giữa hồ chôn sao? Xưa kia, Hồ Tây chỉ là một nhánh cụt của sông Hồng, không rộng tới 560 ha và chứa tới 8 triệu mét khối nước như hiện nay.

Bên Hồ Tây có hàng chục làng mạc cổ, cánh đồng, ruộng vườn bám ở mép hồ và cũng có hàng chục cái nghĩa địa, để chôn cất những người trong làng, hoặc chôn người chết ở các làng phía trong bãi.

Trong sử sách cũng chép, thời Lê, khi đánh nhau với quân Chăm-pa, bắt được tù binh, đều tạo điều kiện cho họ lập kế sinh nhai bằng cách khai hoang vùng đất rậm rạp, heo hút quanh Hồ Tây. Người Chăm-pa sinh sống lâu ngày, lập lên những ngôi làng đặc thù quanh Hồ Tây suốt hàng trăm năm trời. Sống ven hồ, chết cũng ở ven hồ, nên dưới đáy Hồ Tây, có thể vẫn còn hàng ngàn ngôi mộ. Tuy nhiên, thời gian đã quá lâu, lớp bùn đất bồi lấp, dìm những nghĩa địa này xuống dưới sâu.

Hồ Tây có gì? Hồ Tây có bình yên, sự bình yên hiếm hoi giữa Hà Nội tấp nập này. Sáng sớm ở hồ Tây thường có sương mù, nhất là vào mùa đông, mùa xuân. Nước hồ Tây buổi sáng xao động rất nhẹ, mặt hồ gần như phẳng lặng vì yên gió.

Xung quanh hồ là những người tập thể dục, đạp xe đạp rất đông. Ai cũng muốn hít thở một bầu không khí mát mẻ, trong lành ở nơi không gian rộng mở thoáng đãng. Buổi trưa, hồ Tây bước vào thế giới của khoảng lặng.

Kể cả những nơi luôn đông đúc và nhộn nhịp như phủ Tây Hồ cũng rất ít người ở lại. Vào những chiều mưa giông thì hồ Tây cũng không khác mặt biển là mấy. Gió ào ạt trên một khoảng không gian rộng lớn không bị ngăn cản, nước hồ chồm cao một vài gang tay như sóng biển. Tiếng sóng vỗ cũng dạt dào như những nỗi niềm gửi gắm đâu đây…

Những hôm thời tiết yên bình thì chiều muộn trên hồ Tây có một màu sắc rất lạ. Khi vầng mặt trời đỏ rực còn đang chuẩn bị rút vào màn đêm thì mặt hồ có một màu đỏ bạc pha ánh sáng, lấp loáng mờ ảo.

Còn đêm hồ Tây bao giờ cũng có khoảng lãng mạn dành cho lứa đôi, những khách sạn cao tầng hắt sáng xuống để mặt hồ không quá tối tăm. Những nhà hàng, quán cà phê lung linh ánh đèn. Những đôi lứa yêu nhau vừa ngồi tận hưởng mùa hạnh phúc, vừa yên tâm hít thở khí trời.

Hồ Tây ngày nay còn là lá phổi xanh của thành phố. Hồ Tây không chỉ đẹp bởi mặt nước xanh mênh mông, mà còn là vẻ đẹp thơ mộng bởi sắc tím của hoa bằng lăng, vẻ rực rỡ của những cánh hoa phượng hồng mỗi độ hè về.

Mặt nước hồ luôn phảng phất những làn gió mát, khiến tâm hồn con người thêm thư thái. Với không gian như thế, hồ Tây thực sự là nơi đến thư giãn của nhiều người Hà Nội.

Câu ca dao nói về vẻ đẹp bình dị của kinh thành Thăng Long cụ thể là vẻ đẹp nguyên sơ, huyền ảo lung linh của hồ Tây- hồ lớn nhất của thủ đô nghìn năm văn hiến. Hồ Tây đã trở thành một thắng cảnh nổi tiếng thu hút khách du lịch gần xa và bạn bè quốc tế.

Hồ Tây nằm ở vị trí Tây Bắc ở giữa trung tâm thành phố Hà Nội có diện tích hơn 500 héc-ta, chu vi 4,8 km. Chiều dài đường bao quanh hồ lên tới 8km.

Theo lịch sử, hồ Tây là một đoạn của sông Hồng ngưng đọng lại sau khi chuyển dòng chảy. Cũng có thể vì lý do biến đổi này mà hồ Tây xuất hiện rất nhiều truyền thuyết. Hồ Tây còn có nhiều tên gọi như hồ Mù Sương, hồ Lãng Mạn hay đầm Xác Cáo. Tương truyền rằng trước kia đầm Xác Cáo trước kia là một vùng núi có một con cáo chín đuôi đã đến đây ẩn nấp và làm hại dân lành. Lạc Long Quân thấy vậy đã cho dâng nước nấp vào hang cáo, sau khi nấp nước đầy hang thì hang bị sạt lở và trở thành đầm chôn xác cáo và ngày nay là Hồ Tây.

Hồ Tây mang giá trị văn hóa rất đặc sắc với hai mươi mốt ngôi đền, chùa, đình cổ từ các vương triều phong kiến được xếp hạng là các di tích nổi tiếng với nhiều hiện vật giá trị. Trong đó có 02 bia đá, 65 câu đối cổ, 8 quạt Trung cổ, 60 sắc phong thần và hơn hết là 300 pho tượng được đúc bằng đồng hoặc điêu khắc bằng gỗ. Chùa Trấn Quốc nguyên là chùa Khai Quốc dựng từ thời Tiền Lý tại thôn Y Hoa gần bờ sông Hồng.

Đến hồ Tây không thể không đến hồ Trúc Bạch. Trước kia hồ Trúc Bạch cũng chính là một phần của hồ Tây. Nguyên ở phía nam của hồ có làng Trúc Yên chuyên nghề làm mành. Trước kia quanh khu vực hồ Tây, dân cư rất thưa thớt, có nhiều hang động và rừng cây bao phủ có nhiều loài cá quý hiếm sinh sống nhưng trải qua thời gian hàng nghìn năm tồn tại, cảnh quan nơi đây đã thay đổi hoàn toàn.

Bờ hồ có những đường lớn bao quanh, bên cạnh là những công trình cao ốc hiện đại, những ngôi biệt thự lớn đã thể hiện sự hoàn thiện kiến trúc toàn thành phố. Hồ Tây là bức tranh đẹp nhất Hà Nội là thế giới của những làn gió trong trẻo. Những hàng cây xanh thẳng tắp, đứng trên cao bao quát sẽ thấy hồ Tây như một thành phố biển thu nhỏ xinh xắn. Đặc biệt là nước hồ Tây có những biến đổi rất thú vị về màu sắc qua từng mùa, lúc xanh tươi, lúc xám sương. Theo các góc độ nhìn khác nhau còn thấy được nước lấp lánh hay sáng tối. Phong cảnh hồ Tây thật hữu tình. Đây là địa điểm lý tưởng cho các cặp đôi hẹn hò không chỉ không gian khoáng đạt, mơ hồ mà hồ Tây còn có những nét thi vị vô cùng riêng biệt.

Một món đặc sản của hồ Tây là bánh tôm hồ Tây. Chiếc bánh tôm được bọc bằng bột chiên vàng, cắn một miếng giòn tan, con tôm không quá to nhưng lại rất ngọt và chắc thịt. Ăn cùng với đó là bát nước chấm chua ngọt cùng với củ quả muối chua, ăn cùng rau sống rất đã miệng. Du khách sẽ phải trầm trồ vì vị ngon của bánh tôm hồ Tây.

Là một trong những danh thắng nổi tiếng của thủ đô Hà Nội, Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch được coi là một “sân khấu khổng lồ soi bóng mây trời và cảnh quan thành phố”.

Hà Nội vốn nổi tiếng là thành phố của những hồ nước.Ở trong lòng Hà Nội có hàng chục hồ nước lớn nhỏ. Trong số đó, Hồ Tây là hồ nước lớn nhất với năm trăm héc ta và đường quanh hồ dài đến mười tám ki lô mét.Do diện tích Hồ Tây rộng, mặt nước bằng phẳng, trong xanh nên nếu đặt điểm nhìn từ bờ bên này nhìn sang bên kia thì Hà Nội như một thành phố ven biển vậy.

Khung cảnh ven hồ Tây vô cùng thi vị,mơ mộng. Bao quanh hồ là những hàng cây xanh cao thẳng tắp, những hàng cây mọc đều, rồi những bồn hoa, thềm cỏ xanh mướt mọc xung quanh đã tạo ra một khung cảnh đặc biệt cho hồ Tây. Cái làm nên nét đặc biệt cho Hồ Tây, phân biệt nó với các hồ khác ở Hà Nội của nó không chỉ là khung cảnh mà còn là sắc nước.Sắc nước mỗi mùa đều có sự thay đổi một cách kỳ diệu và ngoạn mục theo thời tiết, lúc xanh, lúc xám, rồi khi sáng khi tối… Và khung cảnh Hồ Tây trở nên rực rỡ thăng hoa nhất có lẽ là vào khoảnh khắc cuối ngày – khi ánh hoàng hôn buông xuống bao phủ lên cảnh vật, cùng cái mờ mờ ảo ảo của ánh đèn đường hắt xuống mặt nước tạo nên một khung cảnh cực kỳ huyền ảo, lãng mạn.

Hồ Tây cũng là địa điểm lý tưởng, lãng mạn cho những đôi lứa hẹn hò, không chỉ bởi khung cảnh rộng lớn, tươi đẹp mà còn bởi sự mơ mộng, thi vị của cảnh sắc nơi đây. Bên cạnh Hồ Tây đó là công viên nước Hồ tây. Nơi đây được xây dựng nhằm mục đích giải trí cho người dân thủ đô và du khách ở các vùng lân cận và du khách nước ngoài sau những giờ làm việc mệt mỏi,căng thẳng.Công viên nước Hồ Tây được xây dựng với quy mô lớn, hệ thống các trò chơi giải trí đa dạng,đáp ứng được nhu cầu của người dân.Đây cũng là một điểm đến thú vị cho mọi người.

Hồ Trúc Bạch là một hồ nhỏ nằm ở quận Ba Đình của thủ đô Hà Nội. Trước đây hồ nằm ở phía Tây Nam của Hồ Tây, tức thuộc hồ Tây, sau này mới được ngăn ra thành một hồ độc lập như ngày chúng tôi mới được tách ra khỏi hồ Tây, Hồ vẫn chưa có tên riêng.

Advertisement

Vào thế kỉ mười tám, chúa Trịnh Giang đã cho người xây dựng một cung điện cạnh hồ, dùng để nghỉ mát, cung điện này được đặt tên là Trúc Lâm. Sau này chúa không sử dụng đến cung điện này nữa thì nó trở thành nơi giam giữ các cung nữ phạm tội. Ở đây, họ buộc phải làm nghề dệt vải, sau đó bán để lấy tiền nuôi sống bản thân. Những tấm vải của họ dệt ra rất đẹp và trở nên nổi tiếng khắp vùng. Lụa đẹp, bóng bẩy gọi là lụa trúc (chữ Hán có nghĩa là Trúc Bạch). Từ đó xuất hiện một làng chuyên dệt lụa với tên là làng Trúc, và hồ cũng được gọi là hồ Trúc Bạch.

Nếu như bạn còn băn khoăn về những cảnh đẹp, di tích, địa điểm để thêm cho mình những trải nghiệm thú vị, thì xin mời bạn hãy ghé qua Hồ Tây. Nơi đây không chỉ là nơi cho ta những bình yên, thanh tĩnh sau một chuỗi làm việc mệt nhọc, nó còn là nơi chứa đựng những giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống quý báu của cha ông ta từ ngàn đời xưa. Cũng là một cách để bạn thêm tự hào, yêu quý quê hương dân tộc mình.

Hồ Tây có từ thời Hùng Vương, bấy giờ nơi đây là một bến nằm giáp sông Hồng thuộc động Lâm Ấp, nên được gọi là bến Lâm Ấp thuộc thôn Long Đỗ. Ở vào thời Hai Bà Trưng bến này ăn thông với sông Hồng, bao bọc quanh hồ là rừng cây gồm nhiều loại thực vật chính như tre ngà, bàng, lim, lau sậy, gỗ tầm… Cùng một số loài thú quý hiếm sinh tồn. Ngoài ra, xung quanh bờ hồ còn có sự xuất hiện của các hang động vừa và nhỏ, bờ phía Tây có Già La Động (nay là Quán La thuộc phường Xuân La), bờ phía Đông có Nha Lâm Động (nay là phố Yên Ninh, Hòe Nhai), bờ phía Nam có Bình Sa Động (thời Lý đổi là Giáp Cơ Xá nay thuộc quận Hoàn Kiếm. Cư dân sinh sống ở đây rất thưa thớt, họ sống chủ yếu bằng nghề săn bắt thú rừng, tôm, cua, cá và trồng tỉa cây cối.

Giờ đây trải qua quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, Hồ Tây vẫn còn vẹn nguyên vẻ đẹp của đất Kinh Kỳ. Hồ Tây là hồ ngoại sinh, có dạng lòng chảo. Hồ Tây từ lâu lắm đã là thắng cảnh. Thời Lý – Trần, các vua chúa lập quanh hồ nhiều cung điện làm nơi nghỉ mát, giải trí như cung Thúy Hoa và Từ Hoa thời Lý nay là khu vực chùa Kim Liên, điện Hàm Nguyên thời Trần nay là khu chùa Trấn Quốc. Tương truyền, chùa Kim Liên được dựng trên nền cung điện của Công chúa Từ Hoa là con Vua Lý Thần Tông. Để phát triển cơ sở tầm tang, công chúa Từ Hoa đã mang các cung nữ ra khu vực Hồ Tây khai hoang, lập ấp và dựng nghề trồng dâu nuôi tằm dệt lụa cho họ. Trại Nghi Tàm là một điền trang lớn quán xuyến việc này. Hồ Tây vẫn được khai phá, cải tạo vào thời nhà Trần. Hồ Trúc Bạch cũng chính là một phần của Hồ Tây. Ven hồ Trúc Bạch có nhiều di tích lịch sử và công trình kiến trúc đặc sắc như đền Quán Thánh ở ngay góc tây nam hồ. Phía đông có chùa Châu Long tương truyền xây từ thời Trần, là nơi tu hành của công chúa con vua Trần Nhân Tông Có đền An Trì nơi thờ Uy Đô, một anh hùng chống quân Nguyên.

Hồ Tây nổi tiếng với những rặng cây xanh rì rất tươi mát và không khí trong lành, rất phù hợp để ta di dưỡng tinh thần. Bao quanh hồ có những bồn hoa, những rặng cây rủ bóng xuống, ta chợt nhớ đến hai câu thơ của Xuân Diệu:

Giúp ta hình dung dáng vẻ yêu kiều, thướt tha của cây liễu. Nước hồ Tây trong xanh, tươi mát, thay đổi theo từng mùa, từng không gian và những khoảng thời gian khác nhau. Khi xanh bích, khi xanh lam, khi trong veo như giọt sương cũng có khi một màu đen tuyền buồn bã khi đêm xuống. Quanh hồ, những ánh đèn lấp lánh thắp sáng cho không gian, trông giống như một tòa lâu đài tráng lệ tọa lạc giữa thành phố. Về đêm khung cảnh hồ Tây càng trở nên lung linh hơn bao giờ hết. Vẻ đẹp của hồ Tây vừa mang những nét cổ điển, truyền thống với những mái vòm và họa tiết từ ngàn xưa, hay những lớp rêu xanh phủ kín trong lâu đời và kính cẩn, lại vừa được hòa mình vào vẻ nhộn nhịp của đất kinh Kỳ, làm nên sự hòa hợp tuyệt vời biết bao. Khi đến hồ tây bạn vừa có thể ngắm cảnh, vừa có thể thưởng thức những món ăn hà nội rất đặc sắc như tào phớ, bánh phở… Mỗi khi đến với hồ Tây hãy yên tâm rằng bạn sẽ luôn được thanh lọc tâm hồn mình. Hồ Tây không chỉ đi vào lòng người mà còn bất tử qua những trang văn, trang thơ để mãi trường tồn cùng thời gian:

Hi vọng rằng những cảnh đẹp thiên nhiên và món ăn nơi đây sẽ giúp bạn cảm nhận sâu sắc và tuyệt vời hơn cuộc sống con người Hà Nội, về văn hóa truyền thống dân tộc.

……………

Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chợ Bến Thành Dàn Ý &Amp; 8 Bài Thuyết Minh Danh Lam Thắng Cảnh trên website Cuik.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!